Construction and Deconstruction of Hanoi’s Cultural
Identity
Nguyễn Văn Chính
Tóm tắt
Các nghiên cứu
đã có về Hà Nội, dù rất nhiều về số lượng nhưng dường như lại chỉ dựa trên một định
đề duy nhất có sẵn, rằng thành phố này là một thực thể văn hóa xác định, đồng
nhất và có bản sắc riêng. Hàng loạt các công trình nghiên cứu công phu về Hà
Nội dường như mặc nhiên cho rằng đó là vấn đề không có gì phải bàn cãi, và
nhiệm vụ của nhà nghiên cứu chỉ là chứng minh cho sự tồn tại và phân tích các
đặc tính của một thực thể văn hóa như vậy. Thuật ngữ “người Tràng An” hay
“người Hà Nội” thường được sử dụng như một khái niệm đương nhiên để chỉ lối
sống thanh lịch-- một nét riêng nổi bật của người dân thủ đô, một lối sống đã
được định hình trong lịch sử, là sự kết tinh giữa tầng lớp nho sỹ và thương
nhân ở đất “kẻ chợ” để tạo nên một loại hình “văn hóa kinh kỳ”.
Bài viết này,
trên cơ sở phân tích tính năng động của dòng di dân nông thôn – đô thị, các quá
trình đô thị hóa, sự đa dạng văn hóa và những khác biệt trong không gian sinh
tồn của cư dân Hà Nội, đã đi đến nhận xét rằng không có một bản sắc Hà Nội với
tư cách là một thực thể văn hóa xác định, bền vững và bất biến. Tính chất “tứ
chiếng” và dòng chảy liên tục của các lớp cư dân khác nhau, nơi hội tụ của tinh
hoa và bình dân, nơi phô bầy sự tương phản giữa giàu sang và khốn cùng là những
đặc điểm dễ nhận thấy trong suốt trường kỳ lịch sử của thành phố thủ đô, nhưng
cũng là đặc trưng phổ biến có thể quan sát được ở nhiều đô thị “kinh kỳ” trên
thế giới. Khái niệm bản sắc văn hóa của một thành phố hay một quốc gia-dân tộc,
thực ra chỉ là một cấu trúc có tính nhân tạo (artificial construction), tùy thuộc vào thiên kiến chủ quan của nhà
nghiên cứu và tác động của bối cảnh chính trị xã hội cụ thể. Nói cách khác, bản
sắc văn hóa không phải là một thực thể tồn tại khách quan mà nó là kết quả của
tư duy, một khái niệm được tạo nên thông qua nhận thức chủ quan của mỗi cá nhân
hay cộng đồng.
1. Đặt vấn đề
Phần lớn các nghiên cứu về lịch sử và văn hóa Hà Nội cho đến
nay thường bị ám ảnh bởi ý nghĩ rằng thành phố này có một bản sắc văn hóa riêng
với những “đặc trưng khác với các vùng miền khác”[1]. Dẫu
thừa nhận rằng cái bản sắc riêng ấy rất khó nhận diện và thấu hiểu, người ta
vẫn mặc nhiên cho rằng bản sắc văn hóa Hà Nội là một thực thể hiển nhiên không
có gì phải bàn cãi, và nhiệm vụ của nhà nghiên cứu chỉ là đi tìm cho ra cái bản
sắc ấy. Nỗi ám ảnh của giả thuyết về một bản sắc văn hóa riêng của Hà Nội đã làm
nảy sinh chủ nghĩa hoài cổ và biến các công trình khoa học thành những bản tụng
ca, gán cho thành phố này những giá trị vượt thời gian và không gian, tạo ra
một lớp sương mờ ảo như huyền thoại phủ lên trên thành phố ngàn năm tuổi nhưng
vẫn đang không ngừng đổi thay này.
Nhìn lại các công trình nghiên cứu đã có về Hà Nội, chúng ta
có thể nhận thấy dù rất nhiều về số lượng nhưng chúng đều dựa trên các cách
tiếp cận theo hướng luận giải duy tình [moral interpretation], nặng về khoa
trương hoặc phảng phất cái hơi hướng của thuyết văn hóa trung tâm và ngoại vi
mà các nhà nghiên cứu phương Tây đã dầy công phát triển [2]. Tuy
nhìn nhận Hà Nội như một trung tâm của hội tụ và lan tỏa văn hóa nhưng rất hiếm
khi các nhà nghiên cứu chỉ ra một cách rõ ràng họ đang nói về Thăng Long – Hà
Nội với tư cách là một đô thị, một tỉnh (gồm cả khu vực nông thôn và đô thị),
hay một vùng trong khi các thuật ngữ “người Hà Nội”, bản sắc Hà Nội”, “lối sống Hà Nội”, “ngôn ngữ Hà Nội”, v.v. thường
được sử dụng như một khái niệm hiển nhiên để từ đó, hàng loạt các giá trị được
dán vào. Sự mơ hồ của khái niệm và sự thiếu vắng của một cơ cấu lý luận khi
tiếp cận văn hóa và lối sống đô thị có lẽ là một trong những nguyên nhân chính
của tình trạng không sản sinh ra được những nhận thức mới về bản chất văn hóa và
những ngụ ý thực tiễn cho bảo tồn và phát triển văn hóa của Hà Nội bất chấp số
lượng nghiên cứu về nó đang ngày càng trở nên đồ sộ [3]. Gạt
bỏ những khác biệt và đồng nhất hóa tính đa dạng để tìm một mẫu số chung có tên
gọi bản sắc văn hóa Hà Nội làm cho việc nhận diện các chiều kích văn hóa của
thành phố - thủ đô trở nên khiên cưỡng và đầy cảm tính. Thêm vào đấy, việc lý
tưởng hóa các giá trị văn hóa của thành phố lại đang tạo ra sức ép vô hình lên
các nhà quản lý mà hậu quả của nó là làm nảy sinh những đòi hỏi về một cơ chế chính
sách đặc thù như kiểu “Luật Thủ đô” mới được đưa ra thảo luận gần đây [4].
Trong bài viết nhỏ này tôi không có hy vọng cung cấp những
tư liệu mới liên quan đến lịch sử văn hóa xã hội của thành phố. Thay vào đó, mong
muốn của tôi là trên cơ sở những tư liệu đã có, đề xuất một cách tiếp cận khác
để nhận diện chân thực hơn bản sắc văn hóa đô thị và góp phần trả lời câu hỏi liệu
có hay không một bản sắc Hà Nội với tư cách là một thực thể văn hóa xác định,
bền vững và bất biến mà các nhà nghiên cứu đã gán cho nó.
Nếu chúng ta quan niệm văn hóa đô thị như là một cấu trúc (construction) thì trong cấu trúc ấy có
những yếu tố cấu thành, tạm gọi là các cấu trúc phụ (sub-constructions or component
parts) tạo nên hình hài và sắc thái của cấu trúc tổng thể. Trong điều kiện
của một thành phố, chúng ta có thể quan sát các nhóm cư dân và lối sống của họ như
là những yếu tố cấu thành diện mạo văn hóa của thành phố mà ta hình dung như
một cấu trúc tổng thể. Vận dụng cách tiếp cận này vào trường hợp Hà Nội, tôi sẽ
cố gắng mổ xẻ lịch sử cư trú, không gian sinh tồn và đặc điểm xã hội của các
cấu trúc phụ mà ở đây là các nhóm cư dân-- chủ thể của văn hóa, để xem các bộ
phận này có vai trò thế nào trong việc tạo nên một ám ảnh về bản sắc văn hóa Hà
Nội. Tôi sẽ bắt đầu bằng việc khái niệm hóa không gian văn hóa Hà Nội, sau đó phân
tích những năng động dân số học trong quá trình đô thị hóa, tính đa dạng về sắc
tộc và chủng tộc của các bộ phận dân cư, những khác biệt trong không gian sinh
tồn và lối sống cũng như mối liên hệ của chúng mà tôi cho rằng nó sẽ là những
đầu mối giúp hiểu được bản chất của những giá trị được khái quát thành “bản sắc
văn hóa” Hà Nội.
2. Nông dân và thị dân
Thanh lịch, hào hoa và tinh tế thường được các nhà nghiên
cứu nhấn mạnh như những đặc tính tiêu biểu cho lối sống của người Hà Nội, thậm
chí nó còn được đề cao như một giá trị “có tính mẫu mực, hay giá trị chuẩn của
dân tộc, của đất nước” [5].
Cơ sở của lập luận như vậy có lẽ chủ yếu được khởi nguồn từ cảm hứng của hàng ngàn
tác phẩm về Hà Nội dưới dạng các bài tản văn, thơ ca và hội họa hơn là từ những
chứng cứ được thu thập và phân tích có hệ thống. Dù chịu ảnh hưởng của cảm xúc
hay lý trí, các nhà nghiên cứu nói chung có khuynh hướng gắn lối sống thanh
lịch ấy với tầng lớp thị dân ở một trung tâm đô thị phát triển vào bậc nhất của
đất nước [6],
cho rằng “lối sống ấy kết tinh văn hóa “Kinh kỳ” của giới nho sỹ và thương nhân
“kẻ chợ” tập trung tại 36 phố phường, hòa với những yếu tố văn minh Pháp được
tiếp thu bởi trí thức Tây học và viên chức nhà nước bảo hộ” [7].
Quan điểm về một lối sống “thanh lịch” như vậy được nói đến
trong hầu hết các nghiên cứu về văn hóa Hà Nội nhưng thực ra chưa bao giờ được
phân tích một cách khoa học. Tôi cho rằng ít nhất có ba yếu tố để nghi ngờ cái
biểu tượng văn hóa này:
(1) Các nghiên cứu đều xem đô thị như là “tiêu chí của sự
phát triển, tiến bộ và văn minh” nhưng cho đến tận gần đây Hà Nội vẫn chưa trở
thành một đô thị hoàn chỉnh, vẫn chỉ ở “phía bên kia của làng xã” [8].
Trong không gian của “thành phố” luôn có một phần thuộc khu vực nông thôn và phần
này lúc nào cũng ở vị thế lấn át so với phần thành thị. Điều này có nghĩa là không
gian địa – văn hóa của Hà Nội luôn hàm chứa hai nhóm văn hóa và lối sống khác
nhau song hành tồn tại. Đó là văn hóa của thị dân và văn hóa nông dân. Chỉ lấy
lối sống của một nhóm thị dân để khái quát thành lối sống chung của “người Hà
Nội” là một cách tiếp cận khiên cưỡng và không có cơ sở khoa học;
(2) Trong lịch sử và thậm chí là mới gần đây thôi, số lượng thị
dân sống trong các khu phố luôn chiếm một tỷ lệ nhỏ hơn nhiều so với những
người nông dân sống trong các làng xã truyền thống của Hà Nội. Bộ phận nhỏ thị
dân này cũng không đồng nhất, bên cạnh tầng lớp quý tộc và quan chức thuộc tầng
lớp cai trị là những trí thức, thương nhân, công chức, thợ thủ công và người buôn
bán nhỏ. Phần còn lại là những người nhập cư, làm các công việc tạp dịch và lao
động chân tay. Họ có mối liên hệ chặt chẽ với khu vực nông thôn ở nhiều làng
quê thuộc các vùng miền khác nhau, và có xu hướng lưu giữ lối sống nông dân của
mình ngay trong lòng thành phố. Vậy là ngay trong bộ phận thị dân nhỏ bé ấy vẫn
có sự hiện diện của văn hóa và lối sống nông dân đối lập với văn hóa thị dân;
3) Nếu cho rằng cái chất hào hoa thanh lịch được hình thành
từ nhóm “tinh hoa” là thị dân và quý tộc thì nhóm này cũng chỉ có thể đại diện
cho lối sống của tầng lớp trên và giới trung lưu mà thôi. Không có cơ sở để lấy
văn hóa và lối sống của nhóm “tinh hoa” này làm đại diện cho văn hóa của một
thành phố. Lối sống của họ có thể là tiêu chuẩn để vươn tới, là giấc mơ của
đông đảo dân chúng ở dưới đáy xã hội nhưng không phải là lối sống của số đông [9]. Lập
luận cho rằng có một sự giao thoa giữa “văn hóa dân gian” của quần chúng nhân
dân lao động bị áp bức và “văn hóa bác học” của giai cấp thống trị [10]
để khái quát một đặc tính chung cho bản sắc Hà Nội chỉ là một biện hộ yếu chưa
được chứng minh cả về lý luận và thực tế.
Thực ra, các tài liệu đã có về Thăng Long xưa, Hà Nội nay có
thể cho phép hình dung được quy mô của khu vực đô thị, số lượng thị dân, và
tính chất xen cài nông thôn – đô thị trong cấu trúc dân cư của thành phố để từ
đó xem xét vai trò và ảnh hưởng của văn hóa thị dân-- được cho là bộ phận cốt
lõi tạo nên bản sắc “thanh lịch” của người Hà Nội. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu
lại dường như không mấy quan tâm xem xét những khía cạnh này.
Trong một nghiên cứu công phu sử dụng phương pháp GIS/RS,
các nhà nghiên cứu cho biết thành Thăng Long gắn với các phố thị để tạo nên một
đô thành cho đến trước thời thực dân chỉ là một khu vực có diện tích rộng không
quá 1,2 km2. Kiểu kết hợp giữa thành (citadel),
tức trung tâm hành chính - quốc phòng và thị- nơi buôn bán của Thăng Long là
một dạng phổ biến thường thấy ở các đô thị phương Đông [11].
Nhà nghiên cứu nổi tiếng về Hà Nội Trần
Quốc Vượng đã chỉ ra cấu trúc điển hình của thành Thăng Long gồm ba bộ phận:
(1) Khu “thành thị quân vương”, tức khu vực hành chính, gồm thành quách, đền
miếu, và nơi thưởng ngoạn của triều đình. Khu này chỉ chiếm một phần nhỏ thuộc
phần lõi của quận Ba Đình ngày nay; (2) Khu “thành thị dân cư” hay còn gọi là
khu phố thị mà cốt lõi là khu 36 phố phường còn lại đến hiện nay; (3) Khu vực
thôn dã bao gồm các làng ở phía Nam và Bắc của trung tâm hành chính [12].
Kiến trúc kiểu phương Đông như vậy cũng thể hiện rõ bản chất chuyên chế của
tầng lớp cai trị vì nó không quan tâm đến các công trình công cộng của thị dân.
Khu vực phố thị chủ yếu để cung cấp hàng hóa cho nhu cầu của tầng lớp trên sinh
sống trong khu hoàng thành hơn là nhu cầu phát triển trên một nền tảng kinh tế
phi nông nghiệp. Đặt cái bộ phận đô thị và thị dân này vào trong bối cảnh Hà
Nội cho đến cuối thế kỷ 19, tức trước khi nó biến thành một thành phố kiểu châu
Âu thì chúng ta mới thấy cái quy mô thành thị và thị dân này nhỏ bé biết chừng
nào: Thành cũ Thăng Long chỉ là một bộ phận nhỏ của phủ Hòai Đức, lọt thỏm vào trong
cơ cấu của tỉnh Hà Nội thời Nguyễn-- một tỉnh được lập ra vào năm 1831 gồm 4
phủ Hoài Đức, Ứng Hòa, Thường Tín và Lý Nhân [13].
Không thể phủ nhận một thực tế là khu vực thành thị đã được mở mang rất
nhiều dưới thời thuộc Pháp. Chính người Pháp đã mang đến cho Hà Nội một khuôn
mặt khác bằng cách tạo ra một đô thị kiểu châu Âu [14].
Khu lõi Ba Đình, nền cũ của Hoàng Thành hoang phế, vẫn tiếp tục được lựa chọn để
xây dựng thành khu hành chính của thành phố. Khu 36 phố phường vẫn được bảo tồn
làm nơi buôn bán dân sinh. Một khu vực hoàn toàn mới gồm đường sá, cầu cống,
công sở, các phố thương mại và dịch vụ, các công trình công cộng như vườn hoa -
công viên, nhà hát, và khu vực dành cho công chức, sỹ quan quân đội và các nhà
tư bản đã được tạo ra. Thành phố Hà Nội lúc này đã mở rộng gấp đôi với 63
phường nhưng cũng chỉ có diện tích xấp xỉ 3km2 so với diện tích vỏn vẹn 1.2 km2
ở những thế kỷ trước. Vào thuở hoàng kim của Hà Nội thời thực dân những năm
1940s, số dân Hà Nội lúc cao nhất cũng chỉ có 132,145 người [15].
Khi Việt Minh vào tiếp quản Hà Nội 1954, thành phố chỉ còn 37,000 người dân
sống trong 34 khu phố thuộc 4 quận nội thành. Lúc này, sau nhiều lần thay đổi
địa giới, diện tích thành phố (bao gồm khu vực nông thôn rộng lớn) đã mở rộng đến
152 km2 nhưng dân số lại giảm so với những năm 1940, có lẽ do ly tán nhiều trong
chiến tranh [16].
So với thời thực dân, không gian Hà Nội thực ra chỉ mới được mở rộng thêm bằng
biện pháp hành chính trong vài thập kỷ qua, bắt đầu từ 1961 với việc nâng địa
giới Hà Nội lên 584 km2 và dân số 91,000 người. Năm 1978 Hà Nội lại mở rộng địa
bàn bằng cách nâng diện tích tự nhiên lên 2,136 km². Quá trình đô thị hóa cơ
học bằng cách sát nhập các làng vào khu vực thành phố trong nhiều thập kỷ đã
làm dân số Hà Nội tăng lên đến hơn hai triệu người vào năm 1999. Đợt mở rộng
địa giới gần đây nhất vào tháng 8 năm 2008, Hà Nội đã nâng dân số lên 6,4 triệu
người, trong đó cư dân thành thị chỉ chiếm 41% và cư dân nông thôn chiếm đa số
với 59% [17].
Một số nhà nghiên cứu đã từng đi tìm lời giải cho câu hỏi tại sao Thăng
Long – Hà Nội trải bao thế kỷ thăng trầm mà vẫn bé nhỏ với số thị dân khiêm
nhường chừng ấy, tại sao một dân tộc vĩ đại với những chiến công hiển hách lẫy
lừng mà lại không để lại cho hậu thế những công trình kiến trúc xứng tầm? Hoàng
Ngọc Kỷ cho rằng quá trình biển tiến và việc lấy đất đắp đê đã tạo nên những
cái hồ Hà Nội, và chúng là những nhân chứng sống giúp lý giải tại sao hoàng
thành lại bị chôn vùi, hết lớp này đến lớp khác chồng lấp lên nhau [18].
Ho Dinh Duan & Mamorou lại đưa ra kiến giải do vị thế bao bọc của sông hồ
và đầm nước, thành Thăng Long khó mà mở rộng ra được [19].
Trong khi đó, sử gia Nguyễn Thừa Hỷ cho biết thành phố bị lụi tàn vì nạn binh
đao trong suốt thế kỷ 18 [[20]].
Trần Văn Giầu tìm kiếm câu trả lời ở triết lý văn hóa Thăng Long coi trọng tinh
thần hơn vật chất, rằng “những kiến trúc tinh thần mang tính chất vĩ đại, vĩnh
hằng sáng rực hơn bất kỳ đền đài nào khác”[21].
Những điều được viện dẫn ở trên đều ít nhiều liên quan đến sự thăng trầm và còi
cọc về quy mô vật chất của khu vực đô thị Hà Nội trong lịch sử. Tuy nhiên, không
gian của một thành phố và số lượng thị dân chủ yếu phụ thuộc vào điều kiện phát
triển của nền kinh tế bởi vì chỉ khi nền kinh tế hàng hóa đủ mạnh để nuôi dưỡng
khu vực không trực tiếp sản xuất thì mới tạo ra được một tầng lớp thị dân và doanh
nhân đông đảo làm cho khu vực đô thị được mở mang. Với nền kinh tế nông nghiệp tự
cấp là chủ đạo, và phần lớn người dân vẫn sống trong các làng quê, thì chúng ta
có thể hiểu được tại sao quy mô của một đô thị bậc nhất trời Nam lại chỉ khiêm nhường đến
thế.
Bằng cách cung cấp các dẫn liệu trên, tôi không có ý cho rằng chỉ với một
tầng lớp thị dân nhỏ bé thì không đủ sức “lan tỏa văn hóa” ra cả một “đại
dương” nông dân. Điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây là khi nói đến Hà Nội như một
thực thể văn hóa có bản sắc riêng, chúng ta không được quên rằng có một Hà
Nội--nhà quê và một Hà Nội--kẻ chợ. Hai bộ phận cư dân này tuy tồn tại trong một
cái khung của cơ cấu hành chính chung nhưng có văn hóa và lối sống khác nhau. Trong
suốt trường kỳ lịch sử hàng ngàn năm của mình, bộ phận thị dân của Thăng
Long-Hà Nội luôn nhỏ bé và yếu ớt, lại bị phân hóa thành các nhóm khác nhau với
quyền lợi, thân phận và lối sống không đồng nhất. Sẽ là một thiếu sót khi phân
tích bản sắc văn hóa Hà Nội mà lờ đi bộ phận văn hóa nông dân chiếm số đông
trong khi có thiên hướng đề cao quá đáng văn hóa của tầng lớp thị dân và quý
tộc nhỏ bé so với các tầng lớp xã hội khác. Với cách nhìn như vậy, tôi tán đồng
nhận xét đích đáng của một nhà sử học khi ông cho rằng văn hóa nông dân mới là
hằng số của lịch sử văn hóa Việt Nam:
"Chính đất nước này,
dân tộc hình chữ S này là đại dương của 3 chữ Nông: Nông thôn, Nông dân và Nông
nghiệp. Ba chữ nông ấy là bản chất của dân tộc này, của văn minh văn hóa này.
GS Trần Quốc Vượng còn gọi 3 chữ Nông này là hằng số của lịch sử văn hóa Việt Nam.
Trên cái mênh mông như thế, trong lịch sử có thực nổi lên lác đác những hòn cù
lao, lác đác, hiếm ít và nổi lên cũng không được cao lắm, đó chính là những đô
thị. Trong số đó, hòn cù lao lớn nhất là Thăng Long- Hà Nội" [22].
3. Chính cư và ngụ cư
Nhà nghiên cứu Giang Quân, người đã viết tới 30 đầu sách về
Hà Nội cho biết “trước đây có khoảng 9% người Hà Nội gốc, còn sau khi Hà Nội mở
rộng thì có lẽ con số đó giảm xuống chỉ còn 5% (tính theo 6,3 triệu dân). Vì
thế mà tính hào hoa, thanh lịch của người Hà Nội đang ngày một phôi pha” [23].
Thực ra, không có cơ sở khoa học nào khả dĩ có thể phân biệt
được người Hà Nội gốc và người Hà Nội nhập cư. Câu hỏi đặt ra là một gia đình
sống ở Hà Nội bao nhiêu lâu thì được xem là người Hà Nội gốc? Ngoài thời gian định
cư ở Hà Nội thì còn có tiêu chí nào khác để xác định tính chất “gốc” của người
Hà Nội? Chưa có nhà nghiên cứu nào có ý định làm rõ câu hỏi này nhưng dường như
đang có một cách hiểu ngấm ngầm rằng người Hà Nội gốc là người có lối sống
thanh lịch, đối lập với cách sống xô bồ và hỗn tạp của người Hà Nội nhập cư [24].
Vì vậy người ta mới la lên rằng cái chất hào hoa thanh lịch của Hà Nội nay đang
mất đi là do làn sóng di dân ào ạt vào thành phố. Cách nói như vậy, theo tôi, chỉ
là để thể hiện một ước vọng muốn phổ biến và phát triển những lối sống và thế
ứng xử có văn hóa của người dân thành phố hơn là một thuộc tính phổ quát có
thật đã từng tồn tại ở Hà Nội mà nay đã mất đi. Về một phương diện nào đó, có
thể đồng ý với giả thiết của Hoàng Hưng [25] và
Nguyễn Thừa Hỷ [26] rằng cái thuộc tính hào hoa thanh lịch mà ngày
nay người ta xem là bản sắc chung của người Hà Nội thực ra chỉ trở nên phổ biến
và được nói đến nhiều dưới thời cận đại, trong những gia đình trí thức, quan
lại và công chức Tây học, trên cơ sở tiếp nối truyền thống kẻ sỹ của những đạo
đức nho học trước đó. Nói như vậy cũng đồng nghĩa với việc thừa nhận rằng cái
nếp sống thanh lịch ấy thực ra cũng không có tính chất “gốc” mà chủ yếu được
hình thành và phát triển trên cơ sở của những gia đình nhập cư, vì phần lớn
những người làm quan, học hành đỗ đạt và làm công chức trong bộ máy công quyền ở
Hà Nội đều được tuyển dụng từ nơi khác đến và hợp thành một nhóm tinh hoa của
đô thị.
Trên hành trình đi tìm bản sắc của “tiếng Hà Nội gốc”, nhà
ngôn ngữ học Hoàng Hành xác định: “Người sinh ra và lớn lên ở (hai huyện) Vĩnh
Thuận và Thọ Xương cùng với hậu duệ của họ là người Hà Nội gốc và tiếng nói của
họ, thổ ngữ Vĩnh Thuận – Thọ Xương, chính là tiếng Hà Nội gốc”. Dẫu vậy, ông vẫn
phải thêm rằng “sau khi định đô, người Hà Nội gốc không còn chỉ là cư dân của
hai huyện Vĩnh Thuận và Thọ Xương nữa, mà còn gồm cả những người từ bốn trấn
quanh đó về định cư ở nội thị” [27].
Điều này có nghĩa rằng tìm hiểu tiếng Hà Nội gốc tức là tìm hiểu cái ngôn ngữ đã
được phát triển trên cơ sở hòa trộn tiếng nói của cư dân hai huyện này với
những người nhập cư đến từ các vùng khác chứ không phải cái ngôn ngữ đã tồn tại
từ trước khi có thành Thăng Long. Nói như vậy để thấy rằng cuộc tranh luận về thành
phần gốc và mới của cư dân Hà Nội không chỉ phức tạp mà còn có nguy cơ đi vào ngõ
cụt. Hơn thế, nó còn có thể dẫn tới cái bẫy của sự phân biệt đối xử giữa những
người được xem là dân gốc với những người bị gán cho cái nhãn nhập cư. Câu
chuyện này cũng giống như sự phân biệt chính cư và ngụ cư trong các làng truyền
thống ở đồng bằng sông Hồng, nơi những người ngụ cư phải chịu nhiều thiệt thòi,
phải trải qua nhiều đời với thân phận và vị thế chính trị rất thấp để được nhận
cái danh là dân chính cư. Hà Nội đương nhiên không phải là một cái làng.
Nhìn lại quá trình tụ cư và cấu trúc dân số của Hà Nội từ
trong lịch sử cho đến hiện tại, ta thấy tồn tại hai khu vực dân cư với độ tương
phản rõ rệt trong các năng động dân số học. Khu vực nông thôn gồm các làng mạc
thôn ấp thuộc các quận huyện ngoại thành về cơ bản không có xáo trộn lớn về dân
cư. Lịch sử đời sống và ghi chép về lai lịch của các dòng họ sống trong các
làng mạc mà người ta còn lưu giữ được đến ngày nay cho thấy mức độ tương đối ổn
định về dân số trong một khoảng thời gian nhất định. Ngược lại, khu vực đô thị
bao gồm các khu hành chính, các phường thủ công và buôn bán có dân số không
đông, nhưng mức độ xáo trộn và thay đổi dân số lại diễn ra thường xuyên hơn. Bên
cạnh tính năng động của một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa thì Hà Nội
cũng thường xuyên là mục tiêu hủy diệt của các cuộc chiến tranh, loạn lạc và ly
tán. Thêm vào đó, phần lớn thị dân và thợ thủ công làm việc trong các khu phố
thường vẫn giữ mối liên hệ chặt chẽ với làng quê gốc của họ. Những khi triều
đình có biến hay bị thất bát trong kinh doanh thì nơi họ lui về vẫn là các làng
quê gốc gác của cha ông. Trong khi đó, bộ phận trí thức, công chức và quan lại
thì được tiếp nhận đến hoặc chuyển đi theo yêu cầu của nhà nước. Như đã nói tới
ở trên, vào lúc hoàng kim của đô thị Hà Nội thời cận đại hồi đầu những năm
1940, tổng số dân sống trong khu vực đô thị cũng chưa tới 14 vạn người. Tuy
nhiên con số này có lẽ chưa bao gồm những người dân di cư sống trong thành phố
nhưng không có đăng ký chính thức. Bộ phận này chắc chắn không nhỏ. Họ chủ yếu
là những người buôn thúng bán bưng, giúp việc nhà, làm các công việc nặng nhọc
như phu xe hay khuân vác. Và nơi tá túc của họ thường ở những khu lao động tồi
tàn vùng ven đô.
Cũng giống như nhiều đô thành trên thế giới, Thăng Long – Hà
Nội luôn luôn là một điểm đến hấp dẫn của nhiều luồng di cư. Luồng thứ nhất bao
gồm những thành phần tinh hoa của đất nước. Họ là những người có tài năng, học
vấn và vốn liếng, được tuyển dụng hoặc tự tìm đến chốn kinh kỳ để phát triển và
thi thố với đời. Luồng thứ hai là những người dân cùng khổ từ các vùng nông
thôn, do lao dịch, thuế má, thất bát, dịch bệnh và bóc lột, bị đẩy đến tình
trạng bần cùng. Họ đổ về Thăng Long tìm cơ hội thay đổi cuộc đời và tạo nên
những khu cư trú tồi tàn của người lao động vùng ngoại ô. Luồng di cư thứ ba là
sự hiện diện của những người nước ngoài đủ mọi thành phần sắc tộc và chúng tộc,
từ những thương nhân, nhà truyền giáo, nhà ngoại giao cho đến những người lao
động nghèo hèn. Họ di chuyển vào các thành phố lớn để tìm kiếm cơ hội phát
triển sự nghiệp hoặc chỉ đơn giản là để tìm kế sinh nhai. Bên cạnh luồng di cư
đến thành phố, cũng có luồng di cư ra khỏi thành phố dù là tự nguyện hay cưỡng
bức. Đặc biệt, các cuộc chiến tranh binh lửa, xung đột và cướp bóc đẫm máu thường
là nguyên nhân làm cho số lượng cư dân khu vực đô thị giảm đi nhanh chóng.
Chính sách của các nhà nước ở mỗi thời kỳ cũng khuyến khích hoặc ngăn chặn các
luồng di dân vào thành phố làm cho dân số khu vực đô thị thay đổi thất thường. Tuy
nhiên, hiện tượng nổi bật của các năng động dân số học khu vực đô thị chính là
các dòng di cư.
Mặc dù các luồng di cư vào Hà Nội trong lịch sử khá đa dạng
và liên tục, nhưng phần lớn điểm đến của những dòng chảy dân số này là khu vực
đô thị. Vùng nông thôn ngoại thành được kiểm soát bởi các cộng đồng làng xã
truyền thống với những tập tục khắt khe liên quan đến người ngụ cư có thể được
xem là một trong những rào cản hữu hiệu chặn đứng các dòng người nhập cư vào
làng xã. Mặt khác, điều kiện kinh tế và sở hữu đất đai như là nguồn tư liệu chủ
yếu ở khu vực nông thôn đã không hấp dẫn người di cư. Như vậy, có thể thấy rằng
thành phần cốt lõi của cư dân đô thị từ khi định hình thành Thăng Long cho đến
hiện tại là người tứ xứ. Dòng di dân này
có tính năng động cao nhưng không ổn định. Vị thế công dân của họ tùy thuộc vào
thái độ của nhà nước ở mỗi thời kỳ. Họ có thể trở thành thị dân, trở lại là
nông dân hoặc chỉ là những kẻ vagabonds
lơ lửng giữa nhà nước và làng xã [28].
Trong con mắt của các nhà quản lý, người di cư từ nông thôn vào đô thị thường
không được khuyến khích. Có tài liệu lịch sử cho thấy ngay từ thế kỷ 15, vua Lê
Thánh Tông đã từng ra lệnh đuổi tất cả những người dân tứ xứ đổ về Thăng Long
kiếm kế sinh nhai, và chỉ kịp sửa sai sau khi nhận thấy chính những người di cư
đã góp phần quan trọng phát triển kinh tế của đô thành và đóng thuế nuôi triều
đình [29].
Câu chuyện từ vài thế kỷ trước vẫn đang là vấn đề thời sự của Hà Nội hôm nay. Báo
chí đưa tin các nhà chức trách Hà Nội chủ trương ngăn cản luồng nhập cư vào Hà
Nội từ năm 2010 trở đi, đặc biệt là đối tượng lao động tự do từ các vùng nông
thôn [30].
Thực ra, những cố gắng bằng biện pháp hành chính như vậy thường không đạt được
thành công vì nó đi ngược lại quy luật phát triển và quá trình đô thị hóa của
thành phố này. Thực chất của quá trình đô thị hóa là sự tăng trưởng tỷ trọng
dân số sống trong khu vực thành thị. Đô thị phát triển tạo ra sức hút và trở
thành động lực của dòng di dân vào thành phố, trong đó có cả những người lao
động có trình độ cao và lao động phổ thông. Lao động nhập cư có thể làm cho
thành phố tập trung nhiều người nghèo hơn, nhưng nó cũng là nơi mang lại niềm
hy vọng của nhiều người dân muốn thoát khỏi đói nghèo. Hà Nội không thể trở
thành một thành phố đóng vai trò trung tâm trong sự phát triển của quốc gia nếu
không có đóng góp của những người dân di cư. Người lao động nhập cư vào thành
phố thường chỉ tìm được việc làm trong nhóm những công việc khó khăn, nguy hiểm,
từ quét rác tới các công việc nặng nhọc trong các công trường xây dựng nhưng đó
là những việc cần thiết để thành phố có thể vận hành trôi chảy. Cũng chính dòng
di cư này bổ xung nguồn lao động dồi dào cho khu vực công nghiệp, xây dựng và
dịch vụ. Đặc biệt, họ còn là sự sống còn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn
dựa trên chi phí nhân công thấp và lao động bán công nghiệp. Từ khi thực hiện
đổi mới, đô thị hóa bùng nổ như một cơn sốt và nhà quản lý đã không tìm ra được
chính sách hữu hiệu dẫn đến lo ngại về người nhập cư sẽ làm quá tải thành phố
và giải pháp quen thuộc dễ dàng nhất là cấm nhập cư. Nói như sử gia Nguyễn Thừa
Hỷ thì “đó là cách quản lý theo kiểu "mục dân"
(chăn dắt dân), "sử dân" (sai khiến dân) của các viên quan cai trị
thời phong kiến, trong một xã hội thần dân”[31] và
nó không thể thích hợp với mô hình quản lý một xã hội đô thị mở của thế kỷ 21.
Các nghiên cứu về dòng di dân vào Hà Nội những năm qua cho thấy bộ phận lao
động nhập cư luôn chiếm khoảng 10% dân số nội đô, trong đó có đến hơn 80% đến
từ các tỉnh đồng bằng sông Hồng, và khoảng một nửa số lao động này là phụ nữ [32].
Một phân tích của Tổng cục Thống kê [33]
cho thấy lao động di cư vào thành phố đều có thu nhập tăng lên so với lao động
không di cư, trong đó lao động nhập cư vào Hà Nội đạt được mức thu nhập cao
nhất so với các nơi khác. Nguồn thu nhập này đã góp phần quan trọng vào thu
nhập của các hộ gia đình nông dân vốn chỉ dựa vào diện tích đất nông nghiệp
chật hẹp và không có điều kiện cải thiện cuộc sống ở khu vực nông thôn.
Tóm lại, dân nhập cư luôn luôn là một bộ phận quan trọng trong
cấu trúc dân số của Hà Nội, trong quá khứ đã như vậy, trong hiện tại và tương
lai cũng sẽ vẫn tiếp tục như vậy. Các lớp người di cư vào thành phố không chỉ
mang lại sức sống và những năng động kinh tế - xã hội cho khu vực đô thị, nó
còn góp phần tạo nên bức tranh đa dạng và sống động trong đời sống văn hóa của
thị dân. Vì thế, không có cơ sở để cho rằng các làn sóng dân nhập cư vào thành
phố đã làm tăng tính xô bồ, hỗn tạp và làm phai nhạt lối sống thanh lịch của
người Hà Nội.
4. Chủng tộc và sắc tộc
Cũng giống như mọi thành phố khác trên thế giới, Hà Nội là một đô thị đa sắc tộc. Có những sắc tộc khác nhau tham gia vào quá trình tạo dựng và phát triển của thành phố mà dấu ấn của họ còn lưu lại cả trong đời sống vật chất lẫn tinh thần của thủ đô. Điều đáng ngạc nhiên là trong khi hầu hết các tài liệu nghiên cứu về Hà Nôi đều nhắc đến sự hiện diện của các nhóm cư dân như Hoa, Ấn, Chăm, Pháp và những sắc tộc thiểu số khác trong từng thời kỳ lịch sử của thành phố nhưng tính chất đa sắc tộc ấy trong bản sắc văn hóa Hà Nội lại hay bị lờ đi, ít được đi sâu phân tích. Khuynh hướng phổ biến là lý giải hiện tượng này theo lập luận “hấp thu” và “hòa tan” các yếu tố ngoại lai để biến thành văn hóa thuần Việt. Khuynh hướng đề cao tính bản địa trong các nghiên cứu về văn hóa Việt Nam nói chung, văn hóa Hà Nội nói riêng có lẽ không phải là sự vô tình. Trong sâu thẳm tư duy của các nhà nghiên cứu Việt Nam, cái tư tưởng bản địa chủ nghĩa có một vị trí đặc biệt. Lớn lên trong một xã hội mà tinh thần phản kháng thực dân hóa và chống biểu hiện ngoại lai dường như lúc nào cũng thường trực trong mỗi con người, việc nhìn nhận văn hóa thành phố thủ đô như một thực thể đa dạng về sắc tộc và chủng tộc, nhất là những sắc tộc ấy đã từng đô hộ và đồng hóa văn hóa Việt thì khó có thể chấp nhận được (!). Nhưng đó lại là một sự thực hiển nhiên cần được phân tích để làm rõ những gam màu đa sắc của văn hóa và cội nguồn của nó trong mỗi kiểu dáng kiến trúc, đền đài, trong những thói quen của đời sống thường nhật và trong cả cõi tâm linh sâu thẳm của con người thủ đô. Chính những yếu tố này, bằng những biểu hiện riêng của nó, cấu thành nên diện mạo văn hóa một đô thị, cũng giống như mỗi viên gạch tham góp vào việc tạo nên một tòa thành hoàn chỉnh mà nếu người ta rút tỉa nó đi, tòa thành ấy không còn nguyên vẹn.
Hà Nội đặc biệt ở chỗ nó là một thành phố kiểu Á – Âu điển hình và đây là nét độc đáo hiếm thấy trong các thành phố cổ châu Á. Tham góp vào việc tạo lập ra thành phố này, không thể không nói đến dấu ấn kiến trúc Hoa và Pháp. Các nhà sử học đã cho biết nguồn gốc của thành Thăng Long bắt đầu bởi Giao châu Đô hộ phủ do thứ sử nhà Tùy là Khâu Hòa xây dựng vào thế kỷ thứ 7, trong đó tòa thành đầu tiên làm trị sở của viên quan đô hộ này có tên gọi là “Tử thành”—tức vòng trong cùng của kiểu kiến trúc ba vòng thành vẫn thường thấy ở các thành cổ Trung Hoa. Người ta cho rằng vị trí của Tử thành thời đó được dựng trên gò Nùng, khu vực điện Kính Thiên còn lại ngày nay. Từ cái tòa thành đầu tiên này, Cao Biền đã tiếp tục củng cố các vòng thành bên ngoài để làm nên thành Đại La trong thế kỷ thứ 8 [34].
Người Hoa – Hán và các sắc tộc Trung Hoa khác đến Việt Nam
từ rất sớm, bằng nhiều con đường khác nhau, và phần lớn những người trong làn
sóng di cư đầu tiên từ phương Bắc tới với mục đích định cư đều đã địa phương
hóa để trở thành người Việt. Các làng cũ không có tên nôm và thường bắt đầu
bằng một tên dòng họ nào đó phổ biến ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ thường có yếu
tố của người nhập cư phương Bắc mặc dù đến nay gốc gác của họ đã không còn dấu
tích [35].
Từ khi đất nước có chủ quyền và định đô ở Thăng Long, làn sóng di cư của người
Hoa vào khu vực nội đô vẫn tiếp tục, nhưng lúc này, vị thế của họ là dân nhập
cư. Sử cũ đã chép về việc vào năm 1274, nhiều người Hoa di cư đến Việt Nam
trên 30 con thuyền đã có đơn xin được ngụ cư ở Thăng Long. Trong thế kỷ 15, tác
phẩm nổi tiếng Dư Địa chí của Nguyễn
Trãi cũng có ghi chép về một phường của người Hoa ở Thăng Long có tên gọi là
Đường Nhân. Chắc hẳn đó là những hạt nhân đầu tiên làm dấu gạch nối cho sự cư
trú liên tục của các phố người Hoa sau này ở Hà Nội. Tài liệu của UBND Hà Nội
mô tả tình hình nhập cư của người Hoa trong các thế kỷ 16-17 như sau:
“Khoảng
thế kỷ XVI, người Hoa chỉ được phép cư ngụ ở Phố Hiến (Hưng Yên). Sang thế kỷ
XVII họ được lên Thăng Long. Hẳn là đông đúc nên có lúc họ xin chính quyền
thành Thăng Long cho họ đứng ra tu bổ xây kè dọc bờ sông Hồng từ bến Hàng Mắm
đến tận bến Tây Long (tức chỗ Nhà Hát Lớn ngày nay). Chả là thuở đó sông Hồng
chảy sát chân đê, tức chân đường Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải bây giờ. Cho
mãi đến năm 1945, ở Hà Nội, vẫn còn hàng chục cửa hàng của các chi phái họ Phan
từ Quảng Đông sang mở cửa hiệu ở Hàng Ngang khoảng trăm năm trước, đã Việt hoá
hoàn toàn. Đó là các hiệu Phan Hưng Thành, Phan
Hoà Thành, Phan Đức Thành, Phan Thái Thành... và những thế hệ người Hoa ở phố
Phúc Kiến (nay là Lãn Ông), Hàng Buồm, Hàng Bồ…[36].
Mặc dù thời kỳ đô hộ trực tiếp của nhà Hán ở Việt Nam đã từ
lâu chấm dứt, nhưng dòng người di cư từ các địa phương thuộc vùng Quảng Đông
như Triều Châu, Phúc Kiến vẫn tiếp tục đổ về phía Nam. Các nhà nghiên cứu cho
rằng phần lớn người Hoa đã Việt hóa; cũng giống như người Hoa nhập cư ở các
nước khác trong vùng, họ đã địa phương hóa để thích nghi với hoàn cảnh. Tuy
nhiên, điều đó không có nghĩa là người Hoa nhập cư không để lại dấu ấn văn hóa
của mình trong đời sống của địa phương sở tại. Các nhà ngôn ngữ học chỉ ra rằng
hơn 60% từ vựng trong tiếng Việt có nguồn gốc từ tiếng Hán, hay còn gọi là từ
Hán – Việt [37], và
chắc chắn trong tiếng Hà Nội với tư cách là một phương ngữ của tiếng Việt đã chịu
nhiều ảnh hưởng của các thành tố Hán ngữ nhưng vẫn chưa thấy nhà ngôn ngữ học nào
dụng tâm nghiên cứu. Đến nay, các khái niệm học thuật và tôn giáo mà ta đang sử
dụng đều phải vay mượn từ tiếng Hán. Về phương diện tôn giáo, sự hiện diện của
đạo Lão, đạo Nho và đạo Phật đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời
sống tâm linh của người Hà Nội. Về phương diện ẩm thực, các món ăn dân dã như
lạc rang húng lìu, vịt quay hay món xì-dầu cũng thấy hiện diện phổ biến trong
bữa ăn hàng ngày của người Hà Nội. Về phương diện y thuật, ngoài y lý cổ truyền
của người Hoa được tin dùng, Hà Nội trở thành một trung tâm bán buôn và phân
phối mặt hàng này trên khắp châu thổ sông Hồng. Các hiệu thuốc Bắc và khu phố
bán các mặt hàng này ở Hà Nội mà ngày nay vẫn đang hiện diện trên các phố Lãn
Ông, Thuốc Bắc (thời Pháp gọi là phố Phúc Kiến, có lẽ bắt nguồn từ người nhập
cư có gốc từ Phúc Kiến, Trung Quốc) hay các phố bán đồ ăn Quảng Đông (vì thế mà
thời Pháp có tên gọi Canton) như Hàng Buồm, Tạ Hiền, Hàng Ngang.v.v. Về phương
diện kiến trúc, có thể nhận thấy các đền miếu và hội quán của người Hoa đã mang
lại một sắc thái rất riêng cho Hà Nội. Nhưng ngay cả cấu trúc các phố thị chật
chội với kiểu nhà dài hình ống san sát có chức năng vừa làm nhà ở, vừa tận dụng
mặt tiền chật hẹp làm cửa hàng buôn bán được cho là đặc trưng riêng “thể hiện
sự khéo léo, tinh tế của người Hà Nội xưa”[38]
thực ra cũng thấy phổ biến ở tất cả các phố Tầu (China Town) trong khu vực, từ
Hội An, Chợ Lớn (Việt Nam) đến các phố Tầu ở Bangkok (Thái Lan), Yojakarta
(Indonesia), Singapore, v.v. Về phương diện văn hóa thượng tầng, các nhà nghiên
cứu có thể tìm thấy trong lối giáo dục khoa cử, các hình thức tổ chức nhà nước,
hệ thống đạo đức và pháp luật của Việt Nam những yếu tố vay mượn hoặc chịu ảnh
hưởng của văn hóa Trung Hoa mà họ nhìn nhận như là “mô hình Trung Hoa” (Chinese
Model) trong văn hóa chính trị ở nước Việt Nam trước thời thực dân [39].
Đó cũng là lý do tại sao các nhà nghiên cứu phải đi tìm bản sắc Việt ở trong
mạch nguồn văn hóa dân gian nơi làng quê và gọi đó là “linh hồn” của văn hóa dân
tộc [40].
Nhưng Hà Nội không chỉ có dấu ấn văn hóa của người Hoa. Một
phần không thể thiếu của văn hóa Hà Nội là dấu ấn Âu Tây mà người Pháp đã mang
đến. Chính những dấu ấn này đã làm nên một thành phố phương Đông mang đậm sắc
thái kiểu châu Âu khiến nhiều du khách ngỡ ngàng như đang khám phá một “Hà
Nội-- Paris của Việt Nam” [41].
Thực ra, ngay từ nhiều thế kỷ trước, các nhà buôn đến từ
châu Âu như Hà Lan, Tây Ban Nha, Anh, Pháp, Bồ Đào Nha đã hiện diện ở đô thị
Thăng Long. Người Pháp và Hà Lan thậm chí đã mở các thương điếm của họ ở cả hai
phố thị Thăng Long và Phố Hiến để làm ăn buôn bán ngay từ thời Lê – Trịnh. Tuy
nhiên, chỉ từ khi Hà Nội trở thành nhượng địa của Pháp sau Hiệp ước Philastre năm 1874 thì ý tưởng về một thành phố theo mô
hình châu Âu mới được tạo ra. Có thể nói, trước khi người Pháp đến Hà Nội, kiểu
nhà một tầng lợp tranh hoặc ngói có chiều ngang hẹp nhưng sâu và có khoảng sân
ở giữa nằm san sát chen nhau trên các con phố hẹp chỉ độ 3 mét là hình ảnh điển
hình của phố thị Hà Nội [42].
Người Pháp đã mang đến Hà Nội một bộ mặt khác trong khi không làm mất đi cái
dáng vẻ xưa cũ tấp nập của 36 phố phường. Đó là các con phố có đường trải nhựa
rộng cả chục mét, với nhà hàng, quán bar và café, dinh thực, công sở, khách
sạn, các công trình công cộng như nhà thờ, công viên, nhà hát, và cả những cơ
sở công nghiệp như cơ khí và in ấn, v.v. Và lần đầu tiên vào năm 1885, một loại
xe khách do ngựa kéo với các trạm dừng đón trả khách đã được tạo ra ở Hà Nội [43]
Hàng loạt các phố Tây lần lượt ra đời sau phố Tràng Tiền và hàng Khay là các phố
Rue Jules Ferry (Hàng Trống) nối với Rue Gia Long (Bà Triệu), Rue
Francis Garnier (Đinh Tiên Hoàng) nối với Rue des Cartes (Hàng Bài), Rue Henri
Rivière (Ngô Quyền) nối với Rue Jacquin (Ngô Thì Nhậm). Những phố này hợp với
các đại lộ Boulevard Rollandes (Hai Bà Trưng), Boulevard Careau (Lý Thường
Kiệt) và Boulevard Gambetta (Trần Hưng Đạo) tạo ra cấu trúc thành phố theo kiểu
ô bàn cờ nối các con phố và đại lộ với nhau, tạo nên bộ phận cốt lõi của khu
trung tâm hành chính thời Pháp thuộc. Sau khi cầu Long Biên và nhà ga Hàng Cỏ
đi vào hoạt động hồi đầu thế kỷ 20, Hà Nội đã trở nên lung linh như một hòn
ngọc ở Viễn Đông.
Tuy nhiên, dấu ấn văn hóa Âu Tây ở Hà Nội không chỉ là những
dãy phố. Bằng việc tạo ra một hệ thống giáo dục kiểu mới nhằm đào tạo những
công chức và trí thức kiểu châu Âu phục vụ nhà nước thực dân, dù người Pháp
không muốn, cũng đã thổi vào đời sống của người Hà Nội một luồng gió mới, xua
đi cái ngột ngạt của hệ thống giáo dục kiểu Tầu dựa trên các tôn ty trật tự
chuyên chế phương Đông vốn đã ngự trị nhiều thế kỷ ở chốn kinh kỳ. Hệ thống
trường học từ trung học đến cao đẳng và đại học chủ yếu tập trung ở Hà Nội đã
thu hút con em các gia đình thuộc tầng lớp trên ở mọi miền đất nước tụ hội về
thành phố học tập và làm việc, và hệ quả là nó đã tạo ra một lớp trí thức tinh
hoa cho dân tộc. Tư tưởng bình quyền châu Âu lần đầu tiên được truyền vào Việt
Nam, tạo điều kiện cho phụ nữ rời khỏi khuôn khổ chật hẹp của gia đình, đến
trường học và tham gia vào hoạt động xã hội. Những giá trị nhân bản về quyền
con người, quan niệm về tự do bác ái, về trách nhiệm công dân, về quốc gia dân
tộc, v.v., thông qua tầng lớp trí thức Tây học mà truyền vào xã hội thuộc địa và
từ đó nâng cao nhận thức của người dân về trách nhiệm của họ đối với đất nước.
Chính tầng lớp tinh hoa trí thức Tây học này đã góp phần đưa những luồng tư
tưởng mới của châu Âu mà họ tiếp thu được qua sách vở vào trong xã hội, làm
nhen nhóm lên xu hướng cách mạng nhằm thay đổi xã hội. Cho đến nay tác động xã
hội của hệ thống giáo dục thực dân nói riêng, thể chế thực dân nói chung ở
thuộc địa thường được nhìn nhận bằng con mắt ác cảm và do đó, không nhận ra
những tác động tích cực của nó đối với xã hội thuộc địa. Khi tổ chức một xã hội
thuộc địa và đào tạo đội ngũ tinh tú phục vụ chế độ, những nhà cai trị thực dân
chắc đã không mong đợi những tác động như vậy vì họ muốn tạo ra những con người
trung thành với mẫu quốc hơn là chống lại chế độ thực dân. Đến nay, “hào khí
Thăng Long” của “Hà Thành hoa lệ” do nhóm trí thức này dấy lên từ hồi nửa đầu
thế kỷ 20 như vẫn còn vang vọng khích lệ tinh thần dân tộc. Quan niệm đề cao
lối sống hào hoa thanh lịch của người Hà Nội mà ngày nay được nhìn nhận như bản
sắc văn hóa của thành phố có lẽ cũng đã được sản sinh ra trong giai đoạn đau
thương nhưng hào hùng này. Vì vậy, hầu hết những người giờ đây bày tỏ nuối tiếc
một thời Hà Nội thanh lịch đều là những người đã lớn lên, đã được đắm mình
trong nền học vấn dưới thời thực dân hơn là những người ra đời sau ngày tiếp
quản thủ đô.
Bên cạnh những yếu tố văn hóa Đông – Tây vẫn còn hiển hiện
cả trong đời sống vật chất và tinh thần của Hà Nội, chúng ta cũng thấy sự tham
góp của nhiều nhóm sắc tộc thiểu số bản xứ khác vào trong kho tàng văn hóa đa
dạng và giầu có của thành phố. Không phải đợi cho đến khi các nhà nước phong
kiến Việt Nam chinh phạt phương Nam, đem về kinh thành những chiến lợi phẩm từ
vương quốc Champa như tù binh, thợ thủ công, vũ nữ, thương nhân và gia đình của
họ, Hà Nội mới chứng kiến sự hiện diện của văn hóa Nam Đảo [44].
Khảo sát của các nhà ngôn ngữ học cho thấy có những thành tố ngôn ngữ cổ gốc Mã
Lai, một bộ phận còn sót lại trong tiếng nói của nhóm cư dân cổ đại, tổ tiên
trực tiếp của người Việt hiện đại vẫn đang còn sống trong kho từ vựng của người
vùng Hà Nội, đặc biệt là những địa danh cổ như sông Cà Lồ, Cán Khê, Càn Hải,
v.v. dù cho thời gian đã phủ lên tầng ngôn ngữ nguyên sơ này một lớp Hán Việt
rất dầy [45].
Khảo sát các làng nông nghiệp tồn tại trong khu vực hoàng
thành Thăng Long bị hoang phế sau thế kỷ 18 cũng cho thấy gốc tích của nhiều
dòng họ ở đây vốn là người Mường và người Thái ở vùng Thanh - Nghệ được tuyển dụng làm việc phục vụ trong hoàng
thành rồi sau đó định cư ở lại các trại như Hữu Tiệp, Ngọc Hà, Vạn Phúc, Liễu
Giai và Giảng Võ [46].
Ngày nay, với việc sát nhập Hà Tây vào địa giới Hà Nội, các
sắc tộc thiểu số như Mường, Dao đã chính thức trở thành một bộ phận cư dân gốc bản
địa của thủ đô với khoảng 1% tổng số dân toàn thành phố.
Tóm lại, nhìn nhận dấu ấn văn hóa Hoa, Pháp và các tộc người
khác như những bộ phận hợp thành trong cấu trúc văn hóa của Hà Nội không làm
giảm đi giá trị văn hóa dân tộc mà ngược lại, góp phần hiểu sâu hơn các giá trị
nhân bản, khả năng dung hợp, tính chất hài hòa và đa dạng của một truyền thống
văn hóa lâu đời mà thành phố thủ đô là một đại diện.
5. Không gian đô thị và lối sống
Từ khảo sát không gian cư trú của cư dân khu vực đô thị Hà
Nội hiện nay, ta có thể nhận ra tính chất khác biệt tương đối trong phân bố dân
cư theo lãnh thổ. Những không gian cư trú này được hình thành một cách tự nhiên
và dù chỉ có tính tương đối, nó có thể giúp hiểu được lịch sử cư trú, vị thế xã
hội, mức sống và lối sống của các nhóm dân cư khác nhau. Hơn thế, nó là một chỉ
báo cho thấy bản chất của văn hóa Hà Nội là đa nguyên, đa dạng và không đồng
nhất về lối sống như vẫn thường được khái quát trong các nghiên cứu đã có về văn
hóa Hà Nội. Có thể phân chia không gian sinh tồn của các nhóm cư dân trong khu
vực đô thị Hà Nội thành 5 nhóm sau đây: 1) Khu phố cổ; 2) Khu phố Tây; 3) Các
khu đô thị mới; 4) Các làng nông nghiệp ven đô đang đô thị hóa; 5) Các khu ổ
chuột và xóm liều.
Khu phố cổ, hay
còn gọi là khu 36 phố phường, được xem là trung tâm lịch sử của đô thị Hà Nội.
Hầu hết cư dân sinh sống trong khu vực này đều đã có mặt ở đây từ trước hoặc
trong thời kỳ thuộc Pháp. Không có nhiều hộ gia đình mới nhập cư đến sinh sống
trong khu vực này do đặc điểm cư dân, nghề nghiệp, gốc gác lịch sử và nhất là
không gian chật chội của nó. Đặc điểm kiến trúc điển hình của khu phố cổ là các
ngôi nhà hình ống hẹp về chiều ngang và có chiều sâu. Nhà thường được cấu trúc
thành ba phần liên hoàn: Phía mặt tiền thường được sử dụng làm nơi buôn bán
hoặc làm xưởng sản xuất thủ công, phía trong cùng là khu sinh hoạt của gia đình
và ở giữa thường có một khoảng sân để lộ thiên, còn gọi là giếng trời, để lấy
ánh sáng và không khí thoáng đãng. Giữa các nhà liền kề thường có những lối đi
nhỏ hẹp và tối tăm có thể liên thông với các phố khác. Trước đó, phần lớn các
hộ sống trong các phố này dùng chung nhà vệ sinh công cộng ở phía sau. Gần đây,
hầu hết các gia đình đã cải tạo lại và đưa gian vệ sinh vào phía trong ngôi nhà
mặc dù một bộ phận vẫn phải dùng chung khu phụ do không có không gian riêng. Cư
dân trong các ngôi nhà chật hẹp này chủ yếu sống nhờ vào hoạt động buôn bán
hoặc làm nghề thủ công ngay trên các con phố mà họ sinh sống. Tuy là bộ phận thị
dân có lịch sử cư trú lâu đời của Hà Nội nhưng các ngôi nhà của họ phần lớn đều
đã xuống cấp, được cơi nới và cải tạo lại một cách tùy tiện không theo quy
hoạch. Điều kiện sống của họ khá khó khăn. Nhiều hộ gia đình có từ ba đến bốn
người chỉ sống trong một không gian nhỏ hẹp chừng 10m2 và không có nhà vệ sinh
riêng. Từ thuở khai sinh cho đến ngày nay, trải qua nhiều thăng trầm, biến đổi
và tu sửa, khu phố này vẫn chật hẹp và đông đúc. Các phố cũng đồng thời có chức
năng như những cái chợ với các gian hàng, chen lẫn đền miếu và chùa chiền của
các cộng đồng cư dân người Việt và người Hoa.
Biểu 1. Dân số, diện tích và mật độ
dân số các quận nội thành Hà Nội, 2009
Quận
|
Diện tích (km2)
|
Dân số (người)
|
Mật độ dân số (người/km2)
|
Ba Đình |
9,25
|
225,282
|
24,355
|
Cầu Giấy |
12,04
|
147,000
|
12,209
|
Đống Đa |
9,96
|
387,400
|
38,896
|
Hà Đông |
33,30
|
135,000
|
4,054
|
Hai Bà Trưng |
14,65
|
350,000
|
28,890
|
Hoàn Kiếm |
5,29
|
180,700
|
34,159
|
Hoàng Mai |
41,04
|
214,759
|
5,232
|
Long Biên |
60,38
|
170,000
|
2,815
|
Tây Hồ |
24,00
|
109,163
|
4,548
|
Thanh Xuân |
9,13
|
173,000
|
18,948
|
Nguồn: http://hanoi.vietnamplus.vn/
Khu phố cũ hay
còn gọi là phố Tây chủ yếu được người Pháp xây dựng từ cuối thế kỷ 19, nằm ở
khoảng giữa hồ Tây và hồ Hoàn Kiếm. Nó được thiết kế thành hai khu vực, bao gồm
khu hành chính đầu não nằm trên nền hoàng thành cũ của kinh đô Thăng Long xưa
mà trung tâm là khu vực Ba Đình, và các khu phố kiểu ô bàn cờ với các tòa biệt
thự, công sở, nhà hàng, bệnh viện, công trình công cộng, và cả doanh trại quân
đội. Khu vực phố Tây đã để lại cho Hà Nội một di sản kiến trúc đặc biệt hiếm
có. Từ ngày tiếp quản thủ đô, chính quyền cách mạng về cơ bản vẫn sử dụng các
khu vực theo như công năng mà nó được tạo ra. Khu đầu não thời thực dân được sử
dụng làm công sở của Đảng cầm quyền và Chính phủ. Các khu biệt thự được dùng cho
các đoàn ngoại giao, công sở nhà nước hay tư dinh của các vị lãnh đạo, và các
khu phố thương mại vẫn tiếp tục đảm nhận vai trò kinh doanh buôn bán dưới các
hình thức khác nhau. Đáng lưu ý là nhiều biệt thự đẹp đã bị biến thành chung cư
và bị sửa chữa, cơi nới làm biến dạng phong cách nguyên sơ của chúng trong khi
nhiều nhà cao tầng được phép xây dựng ở khu vực này, khiến cho khu phố Tây vốn
được thiết kế và hoàn thiện đến từng chi tiết, nay trở nên xô bồ hỗn loạn. Thống
kê của Sở Xây dựng Hà Nội cho biết khoảng 80% trong số hơn 900 ngôi biệt thự
còn lại đến nay đã bị lấn chiếm hoặc phá vỡ nguyên trạng [47]. Do yếu kém trong quản lý, lãnh đạo Hà Nội gần đây đã ban
hành chủ trương bán khoảng 600 trong số hơn 900 biệt thự cũ của khu phố Tây cho
những người đang ở thuê với lập luận rằng tư nhân sẽ quản lý di sản tốt hơn [48]. Đây thực ra chỉ là một cách hợp thức hóa quyền sở hữu nhà
biệt thự cho các công chức nhà nước đang ở trong các ngôi biệt thự này dưới
hình thức nhà cho thuê. Động thái này được cho là sẽ làm tăng nguy cơ mất đi
một di sản đặc sắc của Hà Nội thời thuộc địa. Cũng như dưới thời thực dân, cư dân chính của khu phố cũ là những công chức có thế lực trong bộ máy nhà nước các cấp, những doanh nhân có máu mặt và các hộ gia đình kinh doanh buôn bán vừa và nhỏ. Cũng có một bộ phận dân cư là những viên chức, thị dân nghèo và tầng lớp trung lưu của thời bao cấp xen lẫn trong các xóm ngõ lắt léo ở sâu bên trong. Cùng với 36 phố phường, khu phố Tây ít nhiều còn giữ lại dấu vết văn hóa vật chất của một thời quá khứ nhưng cái ruột bên trong đã và đang thay đổi, làm cho lối sống ở khu vực này mất đi dáng vẻ kiêu sa quyến rũ từng có, đến nỗi nhiều người con của Hà Nội lớn lên trước chiến tranh phá hoại của Mỹ đã từng được nhìn ngắm các tòa nhà nguy nga trong khu phố Tây nay ngán ngẩm mà nặng lòng hoài cổ.
Các khu đô thị mới, còn được biết đến dưới tên gọi khu tập thể (hình thành từ sau những năm 1960) và gần đây là khu đô thị (xuất hiện sau thời kỳ đổi mới) đã góp vào diện mạo chung của thành phố những sắc thái riêng, ghi lại dấu ấn phát triển của thành phố qua từng chặng đường lịch sử. Các khu chung cư tập thể là sản phẩm của nền kinh tế bao cấp ở Hà Nội những năm 1960-80s và hình hài của nó phảng phất nét kiến trúc thô thiển của các khu chung cư kiểu Nga so-viet du nhập vào Việt Nam. Trong khoảng thời gian này, hàng loạt khu nhà tập thể cao tầng xây dựng theo hình thức lắp ghép đã mọc lên ở các làng ven đô như Kim Liên, Trung Tự, Giảng Võ, Thành Công, Thanh Xuân Bắc... Cư dân của những ngôi nhà tập thể có diện tích nhỏ hẹp trung bình từ 20 đến 40 m2 này chủ yếu là công nhân viên chức được nhà nước bao cấp về nhà ở. Do thiết kế của khu chung cư không thích hợp với lối sống gia đình, nhiều hộ đã tự ý cơi nới ban công, cửa sổ lấy thêm diện tích sinh hoạt, làm xuất hiện các “chuồng cọp” treo không chỉ mất mỹ quan đô thị mà còn làm cho các khu chung cư xuống cấp nhanh chóng.
Từ khi thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, khu vực đô thị của Hà Nội đã được mở mang rất nhanh chóng. Người ta thấy những con đường mới và những khu đô thị mới được dựng lên ở khu Tây và Nam cầu Thăng Long, Hồ Tây, Bắc Linh Đàm, Trung Hòa, Nhân Chính, Văn Quán, Mỹ Đình, Định Công, v.v.. Hàng loạt khách sạn, nhà hàng, công sở và các tòa nhà chung cư vươn lên sừng sững có kiểu dáng kiến trúc na ná nhau, vô hồn và thiếu thẩm mỹ. Trong khi đó, nông dân ở các làng cổ truyền vùng ven đô phải di chuyển nhường chỗ cho khu chung cư bỗng chốc không còn ruộng đất làm kế sinh nhai và trở thành những thị dân bất đắc dĩ. Điều đáng nói là các dự án xây dựng khu đô thị mới thường không tạo được mạch sống tiếp nối hay gắn bó với những người nông dân đã sống trên những mảnh đất của họ từ đời này qua đời khác. Những người mới đến làm chủ các khu chung cư và biệt thự mới mọc lên hoàn toàn xa lạ và chẳng có mối liên hệ nào với lịch sử và các giá trị văn hóa của các làng mạc xưa mà giờ đây đã biến thành các khu đô thị mới. Dân cư của các khu đô thị này chủ yếu là những người nhập cư. Phần đông trong số họ là các công dân trẻ thuộc tầng lớp trung lưu mới phất lên sau khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường. Rất ít người nghèo có thể tồn tại được ở các khu đô thị mới do giá cả các căn hộ và biệt thự ở khu này thường vượt quá sức tưởng tượng của họ. Hơn nữa, nhiều khoản chi phí hàng tháng đảm bảo cho vận hành của khu chung cư đôi khi vượt quá cả thu nhập của một hộ gia đình công nhân viên chức nghèo. Một đặc điểm dễ nhận ra trong kiến trúc các khu đô thị mới là mật độ xây dựng quá dầy trong khi thiếu vắng các công trình công cộng như trường học, bệnh viện, công viên, vườn trẻ và nơi đỗ xe. Có thể thấy đây là một bước thụt lùi về kiến trúc so với khu phố Tây được xây dựng từ hồi đầu thế kỷ trước.
Các làng ven đô bị cưỡng bức chuyển sang đô thị là một mô hình khá phổ biến trong cơn lốc đô thị hóa ở Hà Nội những năm giao thời giữa hai thế kỷ. Bản chất của quá trình đô thị hóa này là việc bao gồm các làng vào trong khu vực đô thị do đất đai của các hộ nông dân đã bị nhà nước thu hồi cho công cuộc đô thị hóa và công nghiệp hóa. Hậu quả của tình trạng mất đất nông nghiệp đã biến người nông dân vốn quen sống trong các ngôi làng thanh bình với lối sống dựa trên quan hệ cộng đồng nay buộc phải làm quen với lối sống vun vén cá nhân, thành những lao động phi nông nghiệp hoặc thất nghiệp. Một số hộ cảm thấy đời sống khá hơn sau khi nhận được một khoản tiền đền bù đất nhưng nhanh chóng rơi vào trạng thái thất vọng sau đó do chưa được chuẩn bị để trở thành thị dân hay công nhân lao động có kỹ thuật. Đặc điểm của các làng biến ra phố chỉ trong một đêm này là lối sống cổ truyền theo kiểu liên kết dòng họ và láng giềng vẫn ít nhiều được duy trì trong số cư dân gốc, nhưng một bộ phận lớn dân nhập cư giờ đây đã có cơ hội xâm nhập mạnh hơn vào trong cộng đồng. Nhóm cư dân này tràn vào mua đất dựng nhà, thường chiếm lấy các vị trí dọc theo con đường làng quanh co chật hẹp nay trở thành những dãy phố mới. Vì không có mối liên hệ lịch sử nào với nhóm cư dân gốc, những cư dân mới gia nhập vào các làng--phố này mang đến những thói quen, tập tục và thế ứng xử của riêng họ, bất chấp các giá trị truyền thống của cộng đồng gốc, tạo nên những đứt gẫy và hẫng hụt trong lối sống của cả hai nhóm cũ và mới.
Khu ổ chuột và các xóm liều, xóm nhảy dù, xóm ma là một phần của đời sống đô thị ở nhiều nơi trên thế giới. Hà Nội cũng không là một ngoại lệ, và loại hình cư trú của nhóm cư dân này cũng không phải mới xuất hiện gần đây. Quá trình đô thị hóa dưới thời thực dân đã thu hút một lượng lớn lao động nghèo từ vùng nông thôn về thành phố. Họ thường tìm đến các làng ven đô, các khu vực bỏ hoang hay những dải đất bãi bồi ven sông Hồng để tìm nơi tá túc, tạo nên những “góc tối” trong các xóm lao động nghèo vùng ngoại ô. Nhiều tác phẩm của các nhà văn lớn đương thời như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Tam Lang, Nam Cao, v.v., đã phản ánh sinh động đời sống của những con người cần lao bị đẩy ra bên lề cuộc sống, tá tuc trong các xóm lao động “bùn lầy nước đọng” này. Tuy nhiên, trong các tài liệu nghiên cứu về văn hóa Hà nội, khu vực này thường bị lờ đi hoặc chưa nhận được sự quan tâm đúng mức.
Cùng với quá trình đô thị hoá nhanh ở Hà Nội những năm gần đây, người ta cũng thấy xuất hiện ngày càng nhiều các xóm liều đô thị như một hiện tượng song hành của sự bùng nổ dòng chảy lao động tự do từ nông thôn về thành phố kiếm việc làm. Các xóm này có thể được tìm thấy ở nhiều nơi trong thành phố, nổi bật là ở các xóm ven sông, gầm cầu, “bãi rác” bị bỏ hoang, và nhiều xóm ngoại ô khác thuộc các quận đang trong quá trình đô thị hóa nhanh. Có thể xem xóm liều như là một biểu hiện sinh động của tình trạng đói nghèo và độ tương phản trong mức sống ở đô thị đang tăng lên. Khi nói đến các khu ổ chuột và xóm liều, người ta thường hình dung nó như là một thế giới riêng của những kẻ bần cùng lấn chiếm đất công, của các tệ nạn xã hội và làm ăn phi pháp. Khảo sát của chúng tôi ở một số xóm liều trong thành phố cho thấy tuyệt đại bộ phận cư dân sống trong xóm liều là những người lao động tự do hiền lành di cư đến từ các vùng nông thôn nghèo khó. Họ là những người có vị thế dễ bị tổn thương nhất trong đời sống đô thị. Bên cạnh những lao động di cư, trong xóm liều còn có một bộ phận cư dân là những thị dân nghèo, những công nhân viên chức có thu nhập thấp. Ngoài ra, ở đây cũng luôn có bóng dáng của các nhóm xã hội ngầm sử dụng địa bàn này như một nơi lý tưởng để kinh doanh buôn bán ma tuý, nghiện hút, mại dâm và cờ bạc.
Xóm liều đô thị là hệ quả tất yếu của quá trình đô thị hoá, phân tầng xã hội và tình trạng gia tăng dòng di dân tự do đến đô thị. Những người di cư tự do sống trong các xóm liều luôn ở trong tình trạng “lưỡng nan” của thân phận. Một mặt họ tìm thấy ở đây một thế giới riêng mà thân phận nghèo hèn của họ có thể hoà tan vào trong cộng đồng cùng cảnh ngộ để được chia sẻ và an ủi. Họ dường như cảm thấy được “an toàn” và “bình đẳng” hơn trong cái thế giới riêng tồi tàn và đầy bất trắc ấy. Nhưng mặt khác, họ lại ở vào vị thế yếu đuối mong manh do bị “dán nhãn” bởi một cách nhìn méo mó đầy định kiến của các nhà quản lý, và không được thụ hưởng các dịch vụ an sinh xã hội tối thiểu cho người nghèo. Chính sách quản lý lỏng lẻo và tình trạng làm ngơ như đang được thực hành hiện nay chỉ làm trầm trọng thêm vấn đề đói nghèo và tệ nạn vốn đã nổi cộm trong đời sống đô thị Hà Nội. Dòng chảy của người lao động tự do về thủ đô tìm việc làm vẫn đang tiếp tục tăng lên, và các xóm liều mới sẽ lại mọc lên nếu nhà nước chưa có một chính sách toàn diện ở tầm vĩ mô đối với vấn đề di chuyển lao động nông thôn – đô thị [49].
6. Kết luận
Tại hội thảo “Về bản sắc văn hóa Hà Nội trong văn học nghệ
thuật thế kỷ 20” tổ chức tại Đại học Mỹ thuật Hà Nội ngày 23 tháng 9 năm 2010, nhà
nghiên cứu văn hóa Hoàng Ngọc Hiến đã nêu lên sự cần thiết phải làm rõ khái niệm
bản sắc văn hóa trước khi có thể nói về đặc tính của nó. Theo ông, khái niệm
bản sắc thường khiến người ta nghĩ đến một thực thể ổn định và cố định. Nhưng
bản sắc không phải là cái gì đó bất biến. Nó là một quá trình của tiếp biến văn
hóa để hình thành nên bản sắc. Ông cho rằng “nó (bản sắc) đến từ nhiều nguồn,
tức là nó đa nguyên” [50].
Tiếc rằng đề nghị của ông đã rơi tõm vào thinh không. Người ta cứ tiếp tục nói
về bản sắc theo cảm xúc của mình mà không cần “khái niệm hóa” cái mà họ quan
sát được. Tôi hy vọng bài viết này là cách để hưởng ứng lời kêu gọi không được
đáp lại của ông.
Trong bài viết này
tôi đã cố gắng chỉ ra rằng bản chất của văn hóa Hà Nội là đa dạng, đa chiều và
đa nguyên.
Nói đa dạng vì khái
niệm Hà Nội không phải để chỉ riêng khu vực đô thị. Hà Nội như một không gian
địa – văn hóa luôn luôn bao gồm cả khu vực nông thôn và lối sống nông dân. Trong
lịch sử, Hà Nội chưa bao giờ đứng riêng với tư cách là một thành phố độc lập như
ta vẫn thấy ở các thành thị phương Tây. Là một thành phố đô thị hóa chưa triệt
để, còn nhiều mối liên hệ chặt chẽ với khu vực nông thôn, quá trình đô thị hóa từ
trước đến nay vẫn đang thiên về biện pháp hành chính có tính cưỡng bức hơn là quá
trình phát triển tự thân nên trong đời sống văn hóa của Hà Nội, yếu tố nông dân
và nông thôn luôn hiển hiện như một bộ phận hợp thành của cấu trúc văn hóa đô
thị.
Hơn thế nữa, Hà Nội
là một thành phố đa sắc tộc và đa chúng tộc. Người Việt, người Hoa, người Pháp
và nhiều sắc tộc khác đã cùng nhau làm nên thành phố này, và vẫn đang tiếp tục
làm việc cùng nhau trong không gian thành phố thời hiện đại. Dấu ấn văn hóa của
họ không hề bị hòa tan hay biến mất mà ngược lại, vẫn đang hiện diện trong mọi
phương diện vật chất, tinh thần và cả cõi tâm linh sâu thẳm của người Hà Nội.
Tính đa chiều của văn
hóa Hà Nội thể hiện ở sự phân bố không gian cư trú với các nhóm xã hội khác
nhau và lối sống khác nhau. Văn hóa Hà Nội luôn được bồi đắp và biến đổi do
tính năng động dân số học của các lớp người di cư đến thành phố. Di dân nông
thôn – đô thị là quy luật, nhưng cũng là sức sống của Hà Nội và văn hóa Hà Nội.
Thành phố sẽ chỉ còn là một cơ thể đang ngủ yên nếu không có dòng di chuyển dân
số này.
Hà Nội cũng là một
thành phố của sự tương phản trong văn hóa và lối sống. Đó là sự khác biệt giữa
lối sống nông dân và thị dân, giữa cái cũ và cái mới, giữa tính năng động và sự
trì trệ, giữa cao sang và thấp hèn, giữa tinh hoa và bình dân, giữa quyền lực
và bất lực. Vì vậy, bản chất của cấu trúc văn hóa Hà Nội là đa nguyên. Các yếu
tố đa dạng, đa chiều và tương phản trong lối sống luôn hiển hiện trong đời sống
hàng ngày của thành phố nhưng chúng không hòa tan vào nhau, không làm cho cái
bản ngã của mỗi nhóm bị mất đi, ngược lại, chúng tạo nên những gam màu đa sắc
diện, cùng tồn tại trong một không gian văn hóa chung của thành phố. Nhận xét
này gợi lên ý tưởng rằng bảo tồn các giá trị văn hóa của thành phố không
có nghĩa là bảo tồn những giá trị chung chung và trừu tượng mà chính là giữ gìn
những yếu tố vật chất và tinh thần của từng bộ phận đã tham góp vào quá trình
hình thành và phát triển diện mạo văn hóa chung của thủ đô. Sự mai một của các
yếu tố này cũng có nghĩa sẽ làm mất đi một phần bản sắc văn hóa của thành phố.
Việc khái quát bản sắc thành những đặc tính chung như thường được nói đến do đó
sẽ không mang lại những ngụ ý cho các giải pháp mang tính thực tiễn.
Cuối cùng, tôi muốn
nhấn mạnh rằng biến đổi là một hằng số của văn hóa. Không có một nền văn hóa
tĩnh tại xuyên thời gian với những giá trị vĩnh hằng và phổ quát như một vài
công trình nghiên cứu gần đây cổ súy. [51]
Tương tự như vậy, không có một bản sắc Hà Nội với tư cách là một thực
thể văn hóa xác định, bền vững và bất biến. Việc phân tích các nhóm xã hội trong
thành phố với tư cách là những chủ thể văn hóa của Hà Nội cho thấy các bộ phận này
có lịch sử, lối sống và bản ngã riêng. Các yếu tố này gặp gỡ, ảnh hưởng và tác
động lẫn nhau thông qua chất xúc tác của các hoạt động kinh tế, xã hội và sự điều
khiển của các thể chế chính trị nhưng nó không triệt tiêu lẫn nhau. Khái niệm
bản sắc văn hóa của một thành phố hay một quốc gia-dân tộc, thực ra chỉ là một
cấu trúc có tính nhân tạo (artificial
construction), tùy thuộc vào nhận thức chủ quan của nhà nghiên cứu và tác
động của bối cảnh chính trị xã hội cụ thể. Bản sắc văn hóa do đó không phải là
một thực thể tồn tại khách quan mà nó được tạo nên thông qua tư duy chủ quan
của mỗi cá nhân hay cộng đồng. Tuy nhiên bản sắc văn hóa lại là một khái niệm
chứa đựng nhiều yếu tố đạo đức xã hội và cảm xúc. Vì vậy bản sắc có thể trở
thành nguồn cảm hứng vô tận cho các sáng tác văn học, nghệ thuật và chính trị.
Bản sắc cũng có thể đoàn kết hay chia rẽ con người khi nó được sử dụng vào các
mục đích khác nhau. Hà Nội trong tương lai đang vươn đến vị thế một thành phố
toàn cầu. Bản sắc văn hóa như một cấu trúc tưởng tượng có thể trở thành một
động lực lớn lao cho phát triển của thành phố tương lai nhưng bản sắc ấy cần được
hướng đến mục tiêu hài hòa và cuộc sống tốt đẹp cho tất cả người dân thành phố
thay vì chia rẽ và phân biệt.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội thảo về
bản sắc văn hoá Hà Nội trong văn học- nghệ thuật thế kỷ XX
http://www.cpv.org.vn/cpv, ngày 24/09/2010.
http://www.cpv.org.vn/cpv, ngày 24/09/2010.
[2] “Cultural
diffusionism” hay “theory of centre
and periphery” là một lý thuyết được biết đến từ lâu trong nhân loại học
văn hóa phương Tây. Hầu hết các nghiên cứu về văn hóa Thăng Long – Hà Nội của
các nhà nghiên cứu Việt Nam,
dù có hay không đả động gì đến luận thuyết này thì vẫn chủ yếu xoay quanh hai
khái niệm “hội tụ” và “lan tỏa” văn hóa, lấy đó làm điểm xuất phát cho các phân
tích khoa học. Xin đọc thêm: Ngô Đức Thịnh (2007), “Lý thuyết “trung tâm-ngoại
vi” trong nghiên cứu không gian văn hóa”, Tạp chí Văn hóa Dân gian; và Ngô Đức Thịnh (2006), “Bốn luận điểm phương
pháp luận trong nghiên cứu Thăng Long – Hà Nội”. Trong “Văn hóa, văn hóa tộc người, văn hóa Việt Nam”. Hà Nội, Nxb Khoa học Xã
hội.
[3] Hà Nội đã tiến hành một dự án đồ sộ có tên “Tủ sách
Thăng Long ngàn năm văn hiến” nhằm thu thập toàn bộ tư liệu liên quan đến thành
phố. Ngoài hàng ngàn sách/báo đã xuất bản, tủ sách dự kiến sẽ trình làng 100
đầu sách được biên soạn trên cơ sở nguồn tài liệu mới thu thập được. http://vietbao.vn, ngày 25/8/2010.
[4] Báo Hà Nội Mới
(16/09/2010) cho biết trong Dự thảo Luật Thủ đô, 20 cơ chế chính sách đặc thù
riêng cho Hà Nội đã được đề xuất, có nguy cơ biến thành phố này thành một
“vương quốc” riêng.
[5] Hồ
Phương Lan (Bt.) Thăng Long Hà Nội Ngàn
Năm Văn Hiến; Nxb Lao Động, Hà Nội 2009, tr. 47, cũng xem thêm các trang
66-68.
[6] Câu nói
được truyền tụng phổ biến trong dân gian “thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến”
thường được viện dẫn để chứng minh cho mức độ sầm uất của một đô thị thuộc vào
hạng “Thượng Kinh” như Thăng Long, cơ sở hình thành lối sống hào hoa thanh
lịch.
[7] Hoàng Hưng, Lối
sống người Hà Nội. Đăng trên http://nguyentrongtao.org, cập nhật ngày 25/09/2010.
[9] Những
câu nói trong dân gian thường hay được viện dẫn như “thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến”, “giàu chốn quê không bằng ngồi lê Kẻ Chợ”, “ăn Bắc mặc Kinh”, “chẳng khôn
cũng thể là người Thượng Kinh” v.v., thực ra chỉ là một cách phản ánh những
ước vọng của người dân quê lam lũ muốn đổi đời hơn là để tụng ca một lối sống
thanh lịch.
[10] Trần Văn Bính, “Nhận diện con người Hà Nội qua lăng kính văn hóa Thăng Long - Hà Nội, Tạp chí Thông tin Công tác Tư tưởng, Lý luận; số ra tháng 10/2009.
[11] Ho Dinh
Duan and Shibabaya Mamorou, “Studies on Hanoi Urban Transition in the Late 20th
Century based on GIS/RS”; Southeast Asian
Studies, Vol. 46, No.4, March 2009, p. 532-546.
[12] Trần
Quốc Vượng, “Đô thị cổ Việt Nam”.
In trong cuốn “Trong Cõi”, Nxb Tram Hoa, California,
USA, 1993.
[13] “Công bố bản đồ Hà Nội 1831”; Tuoi Tre, ngày 25/9/2010. Trong chương viết về “Đông Kinh Kẻ
Chợ thời Mạc và Lê Mạt”, UBND Hà Nội trong Hà Nội theo năm
tháng (Website thành phố, 10/2010)
trích nguồn từ Nhà truyền giáo người Pháp Alexandre de Rhodes nói rằng dân số Thăng Long
khi đó ước tính vào khoảng 1 triệu người, còn William
Dampier, nhà phiêu lưu người Anh lại cho biết Hà Nội khi ấy có chừng
2 vạn nóc nhà. Những con số này không thực sự đáng tin. Căn cứ vào dấu tích còn
lại của khu đô thị buôn bán sầm uất của Hà Nội trước thời thực dân thì quy mô
một thành phố có diện tích chừng 1,2 km2 làm sao chứa được số dân đông như vậy.
Phỏng đoán này có lẽ nói tới dân số của cả một vùng Thăng Long Hà Nội rộng lớn
hơn là quy mô của một thành thị.
[14] Thành phố Hà Nội được Tổng thống Pháp Sadi Carnot chính
thức ký sắc lệnh thành lập ngày 19/7/1888 và sau đó được sự công nhận của Triều
đình Huế. http://hanoi.org.vn
[15] Baron
& La Salle. Dictionnaire des
Communes administratif et militaire, France métropolitaine et France
d'outre-mer. Paris:
Charles-Lavauzelle & Cie, 1949.
[17] Tổng cục Thống kê, Dân số và mật độ
dân số năm 2009 phân theo địa phương”. Tổng cục
Thống kê Việt Nam, truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
[18] ‘Vì sao
hoàng thành bị chôn vùi’, Thanh Niên
(27/9/2010).
[19] Ho Dinh
Duan & S. Mamorou, 2009, “Studies on Hanoi....,
(đã dẫn).
[21] Trần Văn Giầu, Văn hóa Thăng Long
thời đại Lý – Trần. In trong: Hội Ngôn ngữ học “Hà Nội- Những Vấn đề Ngôn ngữ Văn hóa’. Nxb Thời đại, Hà Nội, 2010 ; tr. 8-35.
[22] Lê Văn Lan, "Hà Nội đâu phải nơi tá túc để kiếm chác", trả lời phỏng vấn trang Tuần Việt Nam, ngày 30/9/2010.
[23] Trả lời phỏng vấn Thể thao Văn hóa, in trong : ‘Nhà
nghiên cứu Giang Quân với 30 đầu sách về Hà Nội’; Thể thao Văn hóa, ngày 24/08/2010.
[24] Lê Phú Khải, ‘Như thế
nào là người Hà Nội’, BBCVietnamese, 10/6/2010. Cũng xem Vương Trí Nhàn, ‘Người
Hà Nội thứ thiệt không nói thế’ ; http://www.bbc.co.uk/vietnamese/culture/2010/09/
[25] Hoàng Hưng, ‘Lối sống người Hà nội”, 2010
(đã dẫn). Nguyễn Thừa Hỷ (đã dẫn) cũng cho rằng đô thị Hà Nội đến thời thực
dân, thành phố dần chuyển sang mô hình thời cận đại, đã làm xuất hiện ‘một giai
tầng mới với lối sống lịch lãm, phóng khoáng của một « Hà Thành hoa
lệ » đối lập với một « Hà thành lầm than »
[26] Nguyễn
Thừa Hỷ, trong ‘Thăng long Hà Nội...’ (đã dẫn) cũng cho rằng đến thời thực dân,
Hà nội dần chuyển sang mô hình một thành phố thời cận đại, bắt đầu xuất hiện
‘một giai tầng mới với lối sống lịch lãm, phóng khoáng của một « Hà Thành
hoa lệ », đối lập với một « Hà thành lầm than ».
[27] Hoàng
Hành, ‘Tiếng Hà Nội- sự hội tụ của bốn phương, tinh hoa của một nền văn hóa. In
trong : Hội Ngôn ngữ học: ‘Hà Nội
Những Vấn đề Ngôn ngữ Văn hóa’. Nxb Thời Đại, Hà Nội 2010, tr.
139-151.
[28] Theo
Masaya Shiraishi, trong công trình nghiên cứu “State, Village and Vagabonds:
Vietnamese Rural Society and the Phan Ba Vanh Rebellion,” đăng trong Andrew
Turton and Shigeharu Tanabe (eds.) “History
and Peasant Consciousness in Southeast Asia”; Osaka: National Museum of
Ethnography, 1984, 345–400, thì trong lịch sử Việt nam, có một nhóm cư dân mà ông
gọi là “vagabonds”. Về bản chất họ là
những du dân nhưng không được thừa nhận và quản lý bởi nhà nước hay làng xã.
Nhóm này có số lượng đông đảo và thường dễ được tập hợp, là nguy cơ gây bất ổn
xã hội mà trường hợp khởi nghĩa Phan Bá Vành là một ví dụ điển hình.
[30] “Cần tính kỹ việc hạn chế nhập cư vào Hà Nội”; http://vnexpress.net/ Thứ Hai, 12/5/2010.
[31] Nguyễn
Thừa Hỷ, Thăng long – Hà Nội…. (đã
dẫn)
[32] Hoàng Văn Chức, Di dân tự do đến Hà Nội. Hà
Nội: Chính trị Quốc gia, 2004, tr.126-27.
[33] “Người dân di cư gặp khó khăn về nơi ở và đăng ký hộ
khẩu”. Thanh
Niên, ngày 23/12/2006.
[34] Nguyễn
Việt – Nguyễn Mạnh, Ai trao “sổ đỏ” thành Đại la cho Lý Công Uẩn? Hà Nội mới,
6/1/2010.
[35] Khảo
sát của Trần Chí Dõi ở 10 xã thuộc huyện Đông Anh cho thấy chỉ có 47% số làng
vừa có tên Nôm vừa có tên Hán Việt. Trên cơ sở phân tích địa danh cổ, ông đi
đến nhận xét: “về mặt địa danh, tính chất thuần Kinh Việt ở đây không phải là
yếu tố trội”. Xem: “Về một vài địa danh, tên riêng gôc Nam Đảo trong
vùng Hà nội xưa”. In trong Hội ngôn ngữ
« Hà nội, những vấn đề....
(đã dẫn), tr. 81-93.
[36] Tư liệu
về người Hoa trong phần viết này lấy từ nguồn của UBND Hà Nội, 2010, phần
“Nguồn gốc dân cư”…. (đã dẫn).
[[37]] Lê Đình Tư cho biết có khoảng hơn 60% số từ của tiếng Việt là từ vay mượn từ tiếng Hán, gọi là từ gốc Hán hay từ Hán-Việt. Xem “Ảnh hưởng của tiếng Hán đối với sự phát triển của từ vựng tiếng Việt” [http://ngnnghc.wordpress.com/2010/12/05.
[38] “Nhà
ống phố cổ và tài hoa người Hà Nội”. http://thanglong.cinet.vn
ngày 26/8/2010.
[39] Woodside, Alexander: “Vietnam and the Chinese model: a
comparative study of Vietnamese and Chinese government in the first half of the
nineteenth century”. Council on East Asian Studies, Harvard University; 1988, c1971.
[40] Trần
Quốc Vượng, Văn hoá Việt nam, tìm tòi và
suy ngẫm.
Nxb Dân tộc, Hà Nội, 2000.
[41] Susan Spano “Vietnam:
Remnants of Hanoi's French colonial past”, Los
Angeles Times, May 23, 2008.
[42] Andre Masson, Hanoi pendant la periode heroique(1873-1888);
Librairie Orientaliste Paul Gueuthner, Paris 1929. [Hà Nội giai đoạn
1873-1888], Bản dịch tiếng Việt của Lưu Đình Tuân, lưu tại UBND Hải Phòng.
[43] A. Masson, 1929 Hanoi pendant…. (đã dẫn)
[44] Nguồn của UBND Hà Nội (2010, đã
dẫn) cho biết ngay từ 1039 một hoàng tử xứ Champa đã cùng gia tộc vượt biên đến
Thăng Long thần phục nhà Lý. Trong các
năm 1390 & 1448 cũng có những bộ phận hoàng tộc Champa mang theo gia quyến
hàng phục Đại Việt và định cư ở lại Hà Nội tại các khu vực Vĩnh Tuy, Thịnh
Quang, Xuân Tảo, Quán La, Trích Sài ngày nay. Một số kỹ thuật dệt lụa và lĩnh
nổi tiếng ở vùng Thăng Long Hà nội xưa được cho là do các thợ thủ công Chăm tài
ba đưa tới.
[45] Trần Trí Dõi, Về một vài địa danh, tên
riêng gôc Nam Đảo trong vùng Hà nội xưa. In trong Hội ngôn ngữ « Hà
nội, những vấn đề.... (đã dẫn), tr. 81-93.
[46] Nguyễn Văn Chính, «Tìm
hiểu thêm vấn đề Thập tam trại ». Tạp chí Dân tộc học, Số 2, 1985, tr.39 – 44;.
Nguyễn Văn Chính & Ng.
Quang Ngọc, “Khu Thập tam trại: Nguồn gốc dân cư, tín ngưỡng thành hoàng và đặc
điểm kinh tế. Tạp chí Khoa học (Đại
học tổng Hợp Hà Nội), số 1, 1986, tr. 26-31.
[47] Đề nghị
dừng phá dỡ biệt thự cũ tại Hà Nội, http://www.thongtindoingoai.vn
ngày 7/5/2010.
[48] Hà Nội ban hành giá bán biệt thự 'công'; Vietnamnet, ngày 02/12/2009.
[49] Nguyễn Văn Chính, 2009 Free migrants in urban space:
The case study of a slum in Hanoi.
In: Vo Quang Trong & Amareswar Galla (eds.) Museum and Urban Anthropology; Vietnam
Museum of Ethnology: Hanoi, p. 242-262.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét