Bài viết đã đăng toàn văn
trên Tạp chí Văn hóa Dân gian, số 4(130), 2010, tr. 3-17.
Nguyễn Văn Chính
Đại học Quốc gia Hà Nội
1. Đặt vấn đề [[1]]
Việt Nam là một
quốc gia đa sắc tộc trong đó các tộc người thiểu số chiếm khoảng 14% tổng dân
số cả nước.[[2]] Bình đẳng,
đoàn kết, chống kỳ thị và phân biệt dân tộc luôn được đề cao như là những
nguyên tắc nhất quán trong hệ thống chính sách dân tộc của nhà nước. Tuy nhiên,
các nhà nghiên cứu dường như lại đang chỉ ra rằng có một khoảng cách lớn giữa
chính sách và thực hành chính sách dân tộc ở Việt Nam.[[3]] Ở một
quốc gia mà công tác tuyên truyền chủ trương đường lối của Nhà nước được đề cao
trên hết như Việt Nam, báo chí được xem như một quyền lực xã hội. Những thông
điệp và hình ảnh về các tộc người thiểu số mà nó truyền tải đến công luận có
thể được xem là đại diện cho tiếng nói của nhà nước. Tuy nhiên, tác động của
báo chí đến xã hội nhiều khi không như mong đợi. Các tờ báo một mặt phải thực
hiện chức năng tuyên truyền đường lối chính sách, mặt khác phải đảm bảo có sức
hấp dẫn để thu hút đọc giả. Các bài viết về văn hóa xã hội các tộc người thiểu
số phần nào đáp ứng được cả hai kỳ vọng nói trên của báo chí. Trong bài viết
này, chúng tôi sẽ xem xét hình ảnh về các nhóm dân tộc thiểu số mà báo chí đã tạo
ra và phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến các khái niệm và khuôn mẫu mà báo
chí sử dụng khi viết về người thiểu số.
Ở Việt Nam hiện
nay có hàng trăm tờ báo in các loại, chưa kể một số lượng hùng hậu các báo mạng
điện tử đang ngày càng lan rộng. Tất cả các tờ báo in đang lưu hành đều do nhà
nước quản lý. Điều này có nghĩa rằng báo chí Việt Nam, dù được quản lý bởi các tổ
chức khác nhau nhưng trên thực tế, chỉ có một tư tưởng chỉ đạo chung cho tất cả
các báo. Dù báo chí phản ánh cuộc sống đa dạng như thế nào đi chăng nữa thì các
thông điệp mà nó truyền tải đến người đọc đều phản ánh quan điểm của nhà nước
thông qua một hệ thống hoàn chỉnh từ quan niệm về đạo đức nghề nghiệp, kỹ thuật
lấy tin viết bài và công tác kiểm duyệt trước khi đến được với công chúng.[[4]]
Vì vậy, việc chọn tất cả các báo để khảo sát là không thể và không cần thiết. Trong
nghiên cứu này, chúng tôi chỉ chọn khảo sát bốn tờ báo đại chúng có lượng đọc
giả khá đông hiện nay là các báo Thanh
Niên, Tuổi Trẻ, Tiền Phong và Công An Nhân Dân.
Tất cả các
thể loại tin bài đăng trên bốn tờ báo này như tin tức, phóng sự, xã luận, ý
kiến bạn đọc, v.v. có liên quan đến các dân tộc thiểu số đều được thu thập để
phân tích. Về mặt thời gian, chúng tôi khảo sát tất cả các số báo của 4 tờ báo
trên phát hành trong các năm 2004, 2006 (từ tháng 1 đến tháng 12) và 6 tháng
đầu năm 2008. Sau khi thu thập được hơn 500 tin bài liên quan đến các dân tộc
thiểu số ở Việt Nam đăng trên các báo này trong khoảng thời gian nói trên,
chúng tôi đã phân loại các bài báo theo nội dung và loại bỏ một số tin, bài
không liên quan trực tiếp đến chủ đề nghiên cứu. Tổng số 500 bài viết đã thu
thập được nhóm xã hội học thuộc học viện Báo chí Tuyên truyền Hà Nội phân tích
với sự trợ giúp của phần mềm SPSS 13.0 và NVIVO 7.0.[[5]]
Mục đích
nghiên cứu của chúng tôi là để tìm kiếm những quan điểm, khái niệm và ngôn từ
hợp thành các phạm trù đại diện cho các tộc người thiểu số trên báo viết. Chúng
tôi tập trung vào mức độ xuất hiện thường xuyên của các ngôn từ mà báo chí sử
dụng khi viết về các tộc người thiểu số. Các khái niệm và ngôn từ này được chia
thành hai nhóm có ý nghĩa và ngụ ý đối lập nhau, tạm gọi là tiêu cực và tích cực. Nhóm ngụ ý tích cực bao gồm các ngôn từ và khái niệm như:
lành mạnh, chân thành, năng động, sáng tạo, chịu khó, tiến bộ, hội nhập. Nhóm
có ngụ ý tiêu cực bao gồm: nghèo nàn, lạc hậu, nguyên thủy, dốt nát, mê tín dị
đoan, ngây thơ, lười biếng, nghiện ngập, phản động. Các ngôn từ và khái niệm
nói trên, sau khi được phân tích sẽ được xem xét trong bối cảnh cụ thể của bài
viết mà chúng được sử dụng để hiểu được vai trò của chúng trong việc tạo ra
hình ảnh về các tộc người thiểu số.
2. Ngôn ngữ
báo chí và chân dung tộc người
Trong
tổng số 500 bài viết về các tộc người thiểu số được khảo sát, có đến 68% số bài
được thể hiện dưới dạng phóng sự và ký sự nhằm mô tả các đặc điểm văn hóa, kinh
tế, xã hội. Chỉ có 26% bài viết dưới dạng tin tức, và 6% đưa ý kiến phản hồi và
các bài phát biểu ngắn có liên quan. Không kể 4 bài về dân tộc thiểu số có đầu
đề được chạy trên trang nhất, tất cả các bài còn lại thường xuất hiện ở các
trang giữa hoặc cuối của tờ báo. Nếu cho rằng các bài viết được đưa lên trang
nhất có tầm quan trọng đặc biệt trong mỗi số báo thì điều này cho thấy vấn đề
người thiểu số ở Việt Nam
không thực sự được các báo quan tâm như một chủ đề có tính thời sự.
Các
tin bài về dân tộc thiểu số thường xuất hiện nhiều hơn trên các báo vào những
tháng đầu năm. Đặc biệt, hai tờ báo Tuổi trẻ và Công an Nhân dân có số bài về
các dân tộc thiểu số tăng đột biến vào dịp đầu năm (khoảng 37% ở báo Tuổi trẻ
và gần 45% ở Báo Công An Nhân dân). Đặc điểm này có lẽ liên quan đến tập quán
phổ biến của báo chí khi lựa chọn những ngày nghỉ đầu năm để giới thiệu về các
tập tục xa lạ, những nét văn hóa độc đáo được cho là còn “đậm chất nguyên thủy”
ở các dân tộc thiểu số nhằm thu hút đọc giả. Ai cũng biết ở Việt Nam,
dịp nghỉ lễ dài nhất trong năm là Tết Nguyên đán (thường rơi vào tháng Hai
dương lịch). Thêm nữa, các tháng đầu năm cũng là dịp các tổ chức nhà nước phát
động thi đua kỷ niệm ngày thành lập Đảng, các báo thường nhân cơ hội này đưa tin
bài ca ngợi sự thay đổi ở vùng thiểu số
như là thành tựu nổi bật.
Phân
tích theo chủ đề cho thấy các bài viết tập trung vào bốn nhóm lớn như sau: 1) các
bài viết về cá nhân điển hình và văn hóa chung của các tộc người chiếm tỷ lệ cao
nhất, khoảng 36%; 2) nhóm bài viết về các hoạt động kinh tế, chính trị và xã
hội ở vùng dân tộc thiểu số chiếm 22%; 3) nhóm bài viết về các phong tục tập
quán lạ và thú vui tiêu khiển du lịch ở vùng thiểu số 21%; 4) nhóm bài viết về
chủ đề giáo dục và y tế ở vùng dân tộc thiểu số chỉ chiếm 12%. Số bài còn lại (khoảng
9%) đề cập đến các chủ đề không xác định rõ ràng. Việc các báo dành một tỷ lệ
đáng kể các bài viết (182/500 bài) đề cập đến những cá nhân hoặc nhóm tộc người
cụ thể là để nhấn mạnh tầm quan trọng của đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước trong việc làm thay đổi đời sống của các tộc người. Các bài viết dạng này
thường đưa tin về các cá nhân xuất thân từ những nhóm dân tộc thiểu số nghèo
nàn và lạc hậu, nhờ đi theo sự dẫn dắt của Đảng mà cuộc đời của họ và dân tộc
họ được cải thiện. Nhìn từ khía cạnh này, có thể thấy các báo đã thực hiện chức
năng tuyên truyền như là một trọng tâm của báo chí nhà nước. Các bài viết
thường thể hiện thái độ bằng cách ca ngợi và cổ vũ hoặc phê phán và áp đặt quan
điểm của mình trước mỗi sự kiện, vấn đề được nêu ra nhằm “định hướng dư luận”.
Một
trong những chủ đề ưa thích của các báo là đề cao vai trò của nhà nước trong
các hoạt động trợ giúp các tộc người thiểu số. Theo thống kê của chúng tôi, có
đến 195 trong tổng số 500 bài báo được khảo sát nói về sự trợ giúp về vật chất
(lương thực, nhà cửa, tư liệu sản xuất, v.v.) của nhà nước đối với các tộc
người. Hoạt động hỗ trợ của nhà nước ở khu vực Tây Nguyên được đưa tin nổi bật
nhất có lẽ do tính chất phức tạp về chính trị của khu vực này hơn là vấn đề
nghèo đói.[[6]] Trong
khi các báo đề cao tính nhân bản của các hoạt động trợ giúp của nhà nước, họ
quên mất rằng chính các hoạt động “trợ giúp” đang tạo ra sự phụ thuộc của các
tộc người vào nhà nước, làm mất đi tính năng động nội tại của tiến trình phát
triển.
Bốn
tờ báo được khảo sát có khuynh hướng tập trung phản ánh văn hóa của một số tộc
người nhất định trong khi các tộc người khác ít được nói tới. Trong số mười tộc
người được các báo nói tới nhiều nhất (Hmong (17%), Bana (11%), Ede (10%),
Jarai (10%), Vân Kiều (10%), Thai (9%), KaTu (9%), Mnong (8%), Dao (8%) và Xê
Đăng 6%), có tới 7 nhóm cư trú ở khu vực miền núi Trường Sơn - Tây Nguyên và chỉ
có 3 nhóm ở miền núi phía Bắc (Hmong, Dao và Thái). Các nhóm tộc người có dân
số nhỏ ở miền núi phía Bắc như Cờ Lao, La Chí, La Ha, Pu Péo hầu như không được
nhắc tới trong các bài báo cụ thể.
Do
mẫu khảo sát nhỏ nên không thể kết luận rằng các báo này đại diện cho khuynh
hướng chung của báo chí Việt Nam, nhưng có thể thấy thông điệp mà các báo này gửi
đến đọc giả đã góp phần tạo nên một hình ảnh tương đối thống nhất về các tộc
người thiểu số, và hình ảnh này không có nhiều khác biệt giữa các báo khác
nhau. Bên cạnh việc đưa tin về tình hình kinh tế, chính trị và xã hội ở vùng
các dân tộc thiểu số mà phần nhiều nhằm mục đích tuyên truyền chính sách, ngợi
ca công lao và thành tựu của Đảng, các báo đặc biệt quan tâm khai thác triệt để
các phong tục tập quán khác lạ. Vấn đề đặt ra ở đây là các bài viết này có màu
sắc định kiến dân tộc hay không, và hình ảnh về các dân tộc thiểu số đã được báo
chí tạo ra như thế nào.[[7]]
Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi tập trung phân tích nội dung và quan điểm của
các bài viết. Thêm nữa, các quan điểm, khái niệm và ngôn từ này được đặt trong
nội dung chung của bài viết để phân tích xem nó biểu hiện cách nghĩ tích cực
hay tiêu cực về các tộc người thiểu số.
Theo
các tiêu chí đã xác định, chúng tôi tìm thấy 373 bài trong tổng số 500 bài báo
được khảo sát (gần 75%) sử dụng các thuật ngữ có ngụ ý tích cực hay tiêu cực. Số
bài còn lại (khoảng 25%) có thái độ không rõ ràng hoặc các thuật ngữ đã lựa
chọn không thấy xuất hiện trong bài báo. Phân tích ngôn từ được trình bầy trong
373 bài báo được lựa chọn, chúng tôi
nhận thấy có tới 284 bài viết (gần 66%) sử dụng các thuật ngữ thuộc nhóm có ngụ
ý tiêu cực. Nội dung chủ yếu của các bài viết này là để mô tả và phê phán tình
trạng “lạc hậu” của các tập tục, niềm tin tôn giáo, lối sống và hoạt động kinh
tế của các tộc người thiểu số. Hình ảnh tiêu biểu mà các bài báo này mang đến
cho người đọc là tình trạng tồn tại phổ biến của những hủ tục lạc hậu, mê tín
dị đoan, thói quen lười biếng và ỷ lại vào nhà nước, lối nghĩ bảo thủ và tình
trạng ngu dốt, v.v. Thông điệp mà các bài báo này nêu ra là tính cần thiết phải
có sự can thiệp của nhà nước để cứu vớt các tộc người này, nếu không họ sẽ ở
bên bờ vực của sự diệt vong (!). Khoảng 34% các bài viết sử dụng ngôn từ có ngụ
ý tích cực nhưng nội dung của chúng chủ yếu là để ngợi ca những đổi thay trong
quan niệm và lối sống của các cộng đồng tộc người theo đường lối của Đảng. Như
vậy, khái niệm tích cực ở đây chỉ có ý nghĩa tương đối vì nó được diễn giải từ
quan điểm của nhà nước thay vì của các tộc người.
Xem
xét các ngôn từ “tích cực” hay “tiêu cực” trong bối cảnh cụ thể của các bài
báo, chúng ta có thể hiểu được những biểu hiện, đặc điểm và mức độ định kiến
của báo chí khi đưa tin, bài về các nhóm dân tộc thiểu số. Các khái niệm và
thuật ngữ có ngụ ý tiêu cực hay tích cực đóng vai trò quan trọng tạo ra chân
dung của các tộc người thiểu số qua lăng kính của báo chí. Những số liệu trên
đây cho thấy biểu hiện định kiến của báo chí đối với dân tộc thiểu số có những đặc
điểm chính như sau:
(1)
Tạo ra hình ảnh người thiểu số chỉ biết thụ động và phụ
thuộc vào nhà nước.
(2)
Quan tâm một cách thái quá đến các tập tục lạ mà báo
chí thường dán nhãn cho chúng là bí ẩn, lạc hậu, mê tín và mông muội.
(3)
Tình trạng đói nghèo và tệ nạn xã hội ở các dân tộc
thiểu số thường được mô tả như là một tất yếu và không lối thoát.
(4)
Giải thích văn hóa và kho tàng kiến thức bản địa của
các tộc người qua lăng kính thiên kiến và chủ quan của nhà báo.
(5)
Sử dụng ngôn từ, hình ảnh và đưa tin theo kiểu dán
nhãn, tạo ra quan niệm phổ biến về người dân tộc thiểu số với những đặc tính
điển hình là ngây thơ, cả tin, thất học và thiếu hiểu biết.
(6) Nhìn lối sống các tộc người thiểu số nhiều tiêu cực hơn
tích cực.
Những
đặc điểm nói trên cho thấy báo chí có khuynh hướng nhìn các dân tộc thiểu số
theo một khuôn mẫu phổ biến là “tiêu cực nhiều hơn tích cực”. Thêm vào đấy, báo
chí cũng thường cố gắng tạo ra một hình ảnh về địa bàn cư trú của các tộc người
thiểu số như những miền “hoang sơ và kỳ bí”, “đầy lãng mạn”. Tôi cho rằng lối
viết bài đưa tin như vậy có hệ lụy là nó tạo ra một hình ảnh không chân thực về
các tộc người thiểu số, thường được thổi phồng hay bị áp đặt. Cách viết như vậy
cũng không giúp cải thiện quan hệ “đại đoàn kết” mà Đảng Cộng sản thường nhấn
mạnh trong hệ thống chính sách của mình. Ngược lại, nó có thể làm sâu thêm cái
hố ngăn cách giữa miền xuôi và miền núi, giữa người đa số và thiểu số. Dưới
đây, tôi sẽ cố gắng chỉ ra ba khuôn mẫu phổ biến của báo chí khi giải thích văn
hóa của các tộc người thiểu số và thử vận dụng các tiếp cận xã hội học văn hóa để tìm hiểu xem những cơ sở
lý luận nào đã ảnh hưởng đến các khuynh hướng ấy.
3. Khuynh
hướng giải thích văn hóa các dân tộc thiểu số
Những
phân tích định lượng ở trên chỉ ra rằng đặc điểm nổi bật của báo chí Việt Nam
khi viết về các tộc người thiểu số là nhìn thấy các khía cạnh tiêu cực nhiều
hơn tích cực. Dựa vào phân tích nội dung các bài báo, tôi sẽ tiếp tục chỉ ra
rằng mặc dù nội dung và hình thức truyền đạt thông tin của báo chí đến người
đọc khá đa dạng nhưng các tin bài này thường chỉ giải thích văn hóa các tộc
người thiểu số theo một số khuôn mẫu phổ biến, có thể được nhóm lại thành ba
khuynh hướng chủ đạo mà tôi tạm gọi là: (1) “huyền bí hóa”; (2) “lãng mạn hóa”;
và (3) “bi kịch hóa”. Tôi sẽ phân tích nội dung các bài báo để làm rõ quan sát
này.
3.1.
Khuynh hướng “huyền bí hóa” đời sống tâm linh và tập tục cổ truyền
Trong
trí tưởng tượng truyền thống của người đồng bằng, miền rừng núi với các tộc
người xa lạ giống như một thế giới bí hiểm. Mặc dù những câu chuyện hoang đường
về các tộc người sinh sống ở vùng núi giờ đây đã không còn phổ biến nữa do
khoảng cách miền xuôi - miền ngược đang ngày càng được thu hẹp lại nhưng mối
quan tâm về những khác lạ trong đời sống văn hóa của các tộc người vẫn còn là
một đề tài có sức hấp dẫn người đọc. Có lẽ đây là một trong những lý do làm cho
các báo tập trung khai thác những tập tục lạ của các tộc người thiểu số ở miền
núi nhằm thỏa mãn trí tò mò của đọc giả. Các bài viết thuộc dạng này chủ yếu
tập trung vào bốn nhóm đề tài chính sau đây:
a)
Những tập tục độc
đáo liên quan đến hôn nhân, gia đình và đời sống tình cảm của
các
dân tộc thiểu số:
- Tục cướp vợ, bắt chồng và “nối dây” trong hôn nhân;
- “Chợ tình”;
- Tập tục tìm hiểu của nam nữ thanh niên các dân tộc thiểu số
như ngủ mái, ngủ thăm, ngủ chung, đi sim, chọc sàn;
- Thói quen để ngực trần và “tắm tiên” của “sơn nữ”; v.v.
Các
tập tục này thường được mô tả như là những “hủ tục của một thời chưa xa”, để
lại “những kết cục đau lòng” nhưng cũng có khi gợi trí tưởng tượng về một nền
văn hóa hoang sơ và mông muội.
b)
Những khác lạ
trong văn hóa ẩm thực như tập quán săn và xẻ thịt thú rừng, bắt cá
quý
trên thượng nguồn sông suối, cách chế biến những món ăn lạ và các tập tục trong
ăn uống của các tộc người.
Trong khi nhìn nhận các tập tục này như những nét đặc sắc của
văn hóa các tộc người, các bài viết thường có xu hướng nhấn mạnh những kỹ năng
“bí truyền” hoặc gán cho chúng những ý nghĩa tâm linh đặc biệt nào đó.
c)
Tín ngưỡng địa
phương, lễ hội dân gian và không gian thiêng của các tộc người
cũng
là một chủ đề chiếm một số lượng đáng kể các bài viết trên mặt báo. Trong nhóm
đề tài này, các bài viết thường tập trung khai thác các vấn đề sau đây:
- Nghi lễ cúng thần, cầu đảo
- Nghi lễ hiến sinh (như lễ hội đâm trâu, lễ xên bản, lễ Gầu
Tào, v.v.)
- Tín ngưỡng phồn thực và tục thờ sinh thực khí
- Những không gian thiêng (như rừng thiêng, rừng ma)
- Đền miếu và kiến trúc cổ kính, hoang sơ và huyền bí
Các chi tiết lạ gợi tò mò thường được báo chí khai thác triệt
để. Khi mô tả về đền tháp, thành quách lịch sử của các tộc người, hay thậm chí
một khu nghỉ mát, các báo cũng gán cho nó “một vẻ đẹp huyền bí” mang nét hoang
sơ để thu hút người đọc.
d) Những
tập tục lạ liên quan đến tang ma của các dân tộc thiểu số cũng thường được
các báo săn tìm và đăng tải nhằm kích thích
trí tò mò của người đọc. Trong khi nhắm vào các chi tiết lạ có sức gây
ấn tượng mạnh của tập tục, các
báo thường gắn vào đó những lời kêu gọi xóa bỏ các tập tục này vì đó là những
“tục lệ quái đản” và “man rợ”.
Tác
động của cách đưa tin bài như vậy thường tạo ra một hình ảnh méo mó về văn hóa
các tộc người trong con mắt bạn đọc và sự khó chịu của chính những tộc người
được báo chí đưa tin. Ông Cư Hòa Vần, một người Hmong lớn lên từ một bản làng
vùng núi cao Tây bắc, nguyên là Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội phản đối
kiểu đưa tin bài sai lệch hoặc thiếu hiểu biết về văn hóa các tộc người thiểu
số như sau:
“Người ta rất hay nói về chợ tình nhưng thực sự không có chợ
tình… Điều đó hoàn toàn là bịa đặt. Giá trị văn hóa độc đáo của những phiên chợ
như thế đã bị hiểu sai lệch hoàn toàn”.[[8]]
3.2.
Khuynh hướng “lãng mạn hóa” văn hóa miền núi
Cùng
với xu hướng phủ lên văn hóa các tộc người một lớp sương mờ huyền bí nhằm cuốn
hút trí tò mò của đọc giả, khuynh hướng “lãng mạn hóa” văn hóa các tộc người
cũng chiếm một số lượng đáng kể trên các trang báo dưới dạng các phóng sự, ký
sự, truyện ngắn và thơ ca. Dưới ngòi bút của các nhà báo, phong cảnh miền núi
hiện ra hùng vỹ như những bức tranh thủy mặc đầy cuốn hút, trong đó có những
sản vật mê hồn hiếm thấy, những món ngon độc đáo có một không hai, những không
gian lý tưởng để thư giãn, những nét văn hóa độc đáo riêng biệt của những con
người chân chất với vẻ đẹp nguyên sơ còn đang chờ được khám phá, v.v. Đọc những
thông tin này, chúng ta như đang tưởng tượng ra hình ảnh một miền núi khác,
không cổ hủ, lạc hậu, man rợ, cũng không có những nỗi đau, chỉ còn lại niềm vui
hạnh phúc trong thú thưởng ngoạn và khám phá. Nhóm các bài viết theo khuynh
hướng “lãng mạn hóa” này thường đi theo những khuôn mẫu phổ biến sau đây:
a)
Ngợi ca phong cảnh miền sơn cước với sông suối, núi
non, thung lũng, ruộng bậc thang, làng mạc, nhà sàn.
b)
Mô tả vẻ đẹp hay tính độc đáo của các sản vật địa
phương như thổ cẩm, lâm thổ sản, các loài động thực vật.
c)
Giới thiệu và cổ vũ cho thú vui ẩm thực miền sơn cước
như các loại rượu, bài thuốc dân gian, các món ăn địa phương và những thú vui
thưởng ngoạn như múa xòe, hát giao duyên, mời rượu.
d)
Thổi phồng vẻ đẹp lãng mạn của người sơn nữ.
Các
bài viết dưới dạng này dường như ngấm ngầm cổ vũ cho trào lưu du lịch đang thịnh
hành ở một bộ phận dân chúng, nhất là tầng lớp trung lưu mới nổi trong xã hội
đô thị và lớp trẻ có nhu cầu khám phá. Hàng năm, vào các dịp tết, lễ, các kỳ
nghỉ đông và nghỉ hè, các báo Thanh Niên, Tuổi trẻ và Tiền Phong lại rộ lên
những loạt bài liên quan đến chủ đề này.
Khi
mô tả vẻ đẹp miền sơn cước, các bài viết có xu hướng đi theo một mô-típ phổ
biến là nhấn mạnh “vẻ hoang dã và bí ẩn của núi rừng” được tô điểm thêm bởi
“những nụ cười hồn nhiên” và “những đôi mắt còn “rực hơn cả lửa”.
Để
tạo ra “vẻ đẹp hoang sơ” của miền núi, các báo thường hay dụng ý tu từ, đưa vào
các thuật ngữ có sức gợi cảm, như “miền sơn cước” hay “sơn nữ”. Có lẽ thơ và
nhạc một thời lãng mạn đã trở thành nguồn cảm hứng để báo chí tưởng tượng ra
hình ảnh về người phụ nữ vùng cao đầy sinh lực mà khi đọc nó, người ta lập tức
quên đi những lam lũ thường ngày. Điển hình cho khuynh hướng lãng mạn hóa hình
ảnh miền núi là loạt bài đăng trên Tuổi
Trẻ và Công An Nhân Dân năm 2007 về
“những miền gái đẹp” ở vùng thượng du. Cái cách mà họ chuyển tải thông tin đến
người đọc thường thấm đẫm chất lãng mạn với những ngụ ý gợi tình.
3.3.
Khuynh hướng “bi kịch hóa” thực trạng đời sống của các dân tộc
Thống
kê của chúng tôi chỉ ra rằng có đến 46% bài viết trên các tờ báo được khảo sát
đề cập đến thực trạng kinh tế của các dân tộc thiểu số ở miền núi. Vấn đề đói
nghèo và những khu vực khó khăn của các dân tộc chiếm một tỷ lệ nổi bật (54%)
trong số các bài phản ánh về về đời sống kinh tế các dân tộc thiểu số. Điều này
cho thấy báo chí đã dành cho chủ đề này một sự quan tâm đặc biệt. Tuy nhiên,
câu hỏi đặt ra là cái cách mà báo chí mô tả vấn đề đói nghèo và hoạt động kinh
tế của các tộc người như thế nào?; Ngôn ngữ, hình ảnh và nội dung các bài viết
ấy đã chuyển tải đến người đọc những thông điệp gì? Chúng tôi đã chỉ ra ở trên
rằng có tới 66% các bài báo sử dụng ngôn từ hàm ý tiêu cực để chuyển tải thông
tin về các dân tộc thiểu số. Biểu hiện của khuynh hướng “bi kịch hóa” đời sống
của đồng bào các dân tộc có thể được nhận ra thông qua các đặc điểm sau đây:
(a)
Ca ngợi thái quá vai trò trợ giúp từ bên ngoài cộng
đồng trong khi lờ đi tiềm lực nội tại của dân tộc.
(b)
Nhấn mạnh khía cạnh khốn khó trong đời sống của đồng
bào các dân tộc nhằm kêu gọi sự can thiệp và giúp đỡ từ nhà nước.
(c)
Mô tả tình trạng lan tràn của các tệ nạn xã hội ở miền
núi như là hệ quả của cuộc sống đói nghèo, bế tắc không lối thoát.
(d)
Nhìn đồng bào dân tộc như những người ngây thơ, cả tin
và dễ dãi, dễ bị lợi dụng và đi theo các lực lượng phản động.
(e)
Tình trạng thất học và thiếu kiến thức làm ăn của các
tộc người miền núi được nhìn nhận như là một gánh nặng của quá trình phát
triển.
Đặc
biệt, xem xét cách tiếp cận và mô tả tình trạng “bi kịch” ở vùng núi, ta thấy
các báo thường đi tìm nguyên nhân ở những tập tục lạc hậu, thiếu kiến thức và
thói quen lười nhác, ỷ lại vào nhà nước. Đáng ngạc nhiên là hầu hết các báo đều
có xu hướng tập trung vào các yếu tố này và lặp đi lặp lại ở nhiều bài báo viết
về chủ đề đói nghèo ở miền núi. Những nhân tố thường xuyên được báo chí nói
tới, xem đó như là con đường tất yếu dẫn đến cuộc sống đói nghèo không lối
thoát của các tộc người thiểu số được liệt kê như sau:
-
Tảo hôn và đẻ nhiều con
-
Buôn bán và nghiện ngập ma túy
-
Sử dụng lương thực làm rượu và lạm dụng rượu
-
Thất học và thiếu kiến thức làm ăn
-
Lười lao động
-
Tập tục canh tác lạc hậu, lối sống bảo thủ trì trệ
-
Thiên tai và dịch bệnh hoành hành
-
Thói quen ỷ lại, phụ thuộc vào trợ giúp của nhà nước.
Bằng
cách tập trung khai thác những yếu tố này, các nhà báo dường như mặc nhiên thừa
nhận nguyên nhân sâu xa và trực tiếp của tình trạng đói nghèo chỉ là vấn đề nội
tại của các dân tộc. Các yếu tố như sự bất cập của chính sách, sự can thiệp của
nhà nước thông qua các dự án kinh tế - xã hội làm phai nhạt bản sắc và mất kiến
thức truyền thống, sự tàn phá và làm cạn kiệt môi trường sống, tác động tiêu
cực của các dự án phát triển, xây dựng cơ sở hạ tầng, của các lực lượng thị
trường, v.v., thường ít khi được đề cập, cứ như thể chẳng có gì đáng nói. Cách
nhìn nhận vấn đề như vậy cho thấy các nhà báo đã chưa cố gắng thấu hiểu văn hóa và lối sống của đồng
bào, ngược lại đang dán nhãn lên lối
sống của họ. Đáng tiếc là hầu hết các tộc người bị dán nhãn này đều không có cơ
hội để phản hồi lại những thông tin sai lệch méo mó về họ vì tiếng nói của họ
quá yếu ớt trong khi báo chí không ý thức được cần phải biện hộ cho những người
“không có tiếng nói” này.
Ở
một khía cạnh khác, khi viết về đời sống chính trị - xã hội ở vùng dân tộc
thiểu số và miền núi, báo chí ít khi nhìn nhận những nỗ lực hội nhập của các
tộc người vào đời sống chung của quốc gia - dân tộc. Thay vào đó, các bài viết
về chủ đề này lại thường tuân theo một mô-týp chung nhằm tạo ra hình ảnh phổ
biến về các tộc người thiểu số với ba đặc điểm chính là: 1) ngây thơ - dễ bị
kích động; 2) cả tin - dễ bị lợi dụng; 3) thiếu hiểu biết – dễ sa ngã vào tệ
nạn. Cách nhìn vấn đề như vậy rõ ràng là phiến diện, nặng về chủ quan và áp
đặt. Nhưng tiếc thay nó cứ lặp đi lặp lại trên các trang báo mỗi khi đề cập đến
thực trạng an ninh xã hội ở vùng núi của đất nước.
Tình
trạng đói nghèo và sự hoành hành của các tệ nạn xã hội ở vùng các dân tộc thiểu
số miền núi cũng thường được các nhà báo mô tả bằng những ngôn từ của bi kịch,
do đó làm trầm trọng thêm vấn đề. Bản thân những câu chuyện về miền núi ấy tự
nó đã thể hiện quan điểm phổ biến của báo chí rằng cần thiết phải có sự can
thiệp và giúp đỡ từ nhà nước và tộc người đa số có văn minh cao hơn để cho
“miền núi tiến kịp miền xuôi”, giống như những khẩu hiệu mà chúng ta vẫn thấy
nhan nhản trên các con đường dẫn đến vùng núi ở Việt Nam. Do ảnh hưởng bởi định
kiến “tiêu cực nhiều hơn tích cực” nên khi viết về các dân tộc thiểu số, báo
chí thường không tìm thấy những động lực và năng động của người dân địa phương trong
nỗ lực phát triển, ngược lại “bi kịch hóa” lối sống của họ. Hệ lụy từ cách tiếp
cận này là nó góp phần tạo ra hình ảnh tiêu cực và méo mó về các tộc người
thiểu số trong con mắt đọc giả, phần đông thuộc tộc người đa số, và do đó làm
tăng khoảng cách miền xuôi và miền ngược, thiểu số và đa số mà chính sách của
nhà nước Việt Nam luôn nói cần phải làm ngắn lại.
4. Căn
nguyên của tình trạng rập khuôn và dán nhãn văn hóa
4.1. Nhà
báo và đọc giả
Mỗi
nền văn hóa và cộng đồng tộc người đều có một hệ thống cấu trúc xã hội của
riêng mình, trong đó bao gồm hệ thống tri thức về sản xuất, lối sống, các giá
trị đạo đức và những ràng buộc về mặt xã hội và tinh thần. Tất cả các yếu tố
này tạo nên một hệ giá trị và một nội lực riêng để tồn tại, thích ứng và phát triển.
Trên thực tế, các giá trị và động lực phát triển của các cộng đồng tộc người
luôn được biểu hiện rất sinh động, phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, vấn đề là
tại sao báo chí lại thường lờ đi những tầng sâu văn hóa vốn làm nên sức sống
của các tộc người để chỉ nhìn thấy, mô tả và cung cấp những thông tin hời hợt
theo một định hướng có vẻ như “vô thức”? Tôi cho rằng cần phải truy tìm nguyên
nhân ở những nền tảng tri thức đã ngấm ngầm ăn sâu và thấm nhuần vào cách tư
duy của giới làm báo để mỗi khi nói về “kẻ khác”, cái “vô thức” ấy lại trỗi dậy
và mách bảo nên làm như thế nào. Tôi sẽ cố gắng phân tích giả thiết này bằng
cách nhìn lại các lý luận trong nhân học để xem chúng có mối liên hệ thế nào
đến cách đưa tin của báo chí. Tuy nhiên, trước khi mổ xẻ nguyên nhân sâu xa
này, tôi muốn thêm rằng thành phần tộc người của nhà báo và thị hiếu của các
đối tượng đọc giả mà họ hướng tới cũng là những nhân tố cần được xem xét vì nó
chắc chắn có tác động đến loại thông tin mà họ thu thập, cách lý giải vấn đề và
đưa những thông tin ấy đến với đọc giả.
Không
có thống kê nào cho biết thành phần tộc người của tác giả những bài viết có
liên quan đến các dân tộc thiểu số nhưng căn cứ vào hồ sơ đăng ký của hơn 50
nhà báo chuyên viết về các dân tộc thiểu số tại hội thảo về báo chí tháng 11
năm 2009 ở Hà Nội, tôi thấy tuyệt đại bộ phận đều xuất thân từ dân tộc đa số
(người Kinh), và không có nhiều nhà báo được đào tạo hoặc viết chuyên sâu về
các tộc người thiểu số. Đưa ra nhận xét này, tôi không hề có ý phân biệt, mà
chỉ muốn nói lên một thực tế rằng phần lớn các tác giả đang nói về các tộc
người có nền văn hóa và hệ giá trị khác với họ. Điều này có nghĩa rằng các tin
bài mà báo chí đưa đến cho đọc giả thường chỉ được nhà báo “nhìn từ bên ngoài”,
với tư cách là một người quan sát, và vì vậy, họ thường lý giải vấn đề của các
tộc người thiểu số bằng các trải nghiệm riêng mà họ có được từ nền văn hóa của
chính mình. Có thể xem đây như là một khoảng cách tri thức giữa nhà báo và đối
tượng mà họ phản ánh. Cách nhìn vấn đề bằng con mắt của người ngoài cuộc như
vậy cũng là đặc điểm phổ biến thường thấy trong các công trình nghiên cứu về
văn hóa các tộc người trong nhân loại học. Nhà thơ Dương Thuấn, một người Tày
làm việc ở Hội Nhà văn Việt Nam đã phát biểu về tình trạng báo chí hiểu sai văn
hóa các tộc người như là một sự “xúc phạm” đến tình cảm thiêng liêng về tộc
người của mình:
“Lắm lúc nghe trên truyền hình, đọc trên sách báo thấy người
ta nói và viết sai về văn hóa của dân tộc mình thì cũng đành ngậm ngùi vậy
thôi. Tâm lý của người dân tộc khi đã bị xúc phạm thường quay lưng đi hơn là
nói lại... Tôi cũng giống như nhiều người dân tộc thiểu số khác là thấy trong
nhiều trường hợp các nhà nghiên cứu phương Tây họ hiểu đúng và trân trọng văn
hóa dân tộc thiểu số hơn ta”.[[9]]
Để
khắc phục cách nhìn phiến diện từ quan điểm chủ quan của người quan sát, các
nhà nhân học thường tham gia vào đời sống của các cộng đồng bản địa mà họ
nghiên cứu để nhìn văn hóa từ quan điểm của chính người bản địa chứ không phải
từ cách nhìn áp đặt từ bên ngoài. Các nhà báo chắc chắn không có nhiều thời
gian để làm như vậy, nhưng họ vẫn có thể thấu hiểu vấn đề từ bên trong bằng
cách cố gắng đặt mình vào trong bối cảnh xã hội cụ thể mà họ đang nói tới thay
vì chỉ giải thích hiện tượng từ quan điểm chủ quan của mình. Nhà báo Lang Quốc
Khánh, một người Thái ở Nghệ An đề xuất rằng viết về đồng bào dân tộc, cần phải
hiểu đúng văn hóa của họ, và muốn làm được như vậy, nhà báo phải tuân thủ hai
nguyên tắc cơ bản: (1) Phải tôn trọng bản sắc văn hóa của tộc người; (2) Phải
tư duy theo lối tư duy của tộc người. Hai nguyên tắc này thể hiện đạo đức nghề
nghiệp và năng lực chuyên môn của nhà báo.[[10]]
Một
vấn đề có ảnh hưởng đến loại hình thông tin và cách đưa tin của báo chí là đối
tượng đọc giả mà họ đang hướng tới. Các báo Việt Nam đưa tin bài về các tộc
người thiểu số chủ yếu nhắm vào số đông đọc giả thuộc nhóm dân tộc đa số, những
người có nhu cầu tìm hiểu về tình hình chính trị - xã hội và các nền văn hóa
của các tộc người khác với văn hóa của họ.[[11]]
Thực ra, cho đến nay chưa có những điều tra xem đồng bào các dân tộc thiểu số
có đọc báo không, ai đọc, tờ báo nào được đọc nhiều nhất, và phản hồi về các
tin bài liên quan đến tộc người của họ thế nào. Tuy nhiên, bằng vào phân tích
cảm quan, chúng ta có thể biết chắc một điều, đó là không có nhiều người dân
tộc thiểu số đọc báo in. Hầu hết các báo phát miễn phí được chỉ định đưa tới
các cơ quan nhà nước cấp tỉnh, huyện, xã và đồn biên phòng. Một vài tờ báo được
phát đến cấp thôn bản hay trường học nội trú nhưng số bản rất hạn chế. Vì thế
chúng ta có thể giả thiết rằng ngoài một số ít công nhân viên chức là người
thiểu số có cơ hội tiếp xúc với báo chí, số còn lại hầu như đứng ngoài cuộc. Vả
lại, văn hóa đọc đối với người thiểu số còn quá xa vời do hạn chế về ngôn ngữ phổ
thông và các mối quan tâm đến đời sống chính trị xã hội của đất nước mà dường
như còn xa vời đối với họ. Nói như vậy để thấy rằng khi đưa tin bài liên quan
đến các tộc người thiểu số thì các báo viết đương nhiên phải hướng đến các đọc
giả đa số vì nhóm đọc giả này muốn thỏa mãn tính tò mò về những điều khác lạ
với văn hóa của họ. Nhắm vào số đọc giả này, các báo cũng giải quyết được mâu
thuấn giữa nhiệm vụ tuyên truyền và tăng bản để nâng cao doanh số. Tuy nhiên,
lối đưa tin theo kiểu ‘dán nhãn’ thường để lại những hệ lụy khó lường. Ông Cư
Hòa Vần cho rằng những thông tin có tính áp đặt như vậy rất tai hại vì:
“Nó tác động sai vào suy nghĩ, nhận thức của chúng ta. Thực ra
người dân tộc thiểu số có nhiều tập quán, phong tục rất tốt đẹp. Nhưng có thời
ta không hiểu, cho là lãng phí, mất trật tự và cấm. Trong lao động sản xuất,
mình cứ nghĩ đồng bào là lạc hậu, phải cầm tay chỉ việc. Nhưng thực ra phải nói
đồng bào có rất nhiều kinh nghiệm quý. Vì ở hoàn cảnh, điều kiện hiểm trở như
thế mà người ta vẫn làm ăn được, như trên núi đá Mèo Vạc, bảo người ta lạc hậu,
nếu ta vào đó có khi chết đói trước”.[[12]]
4.2.
Những ám ảnh “tiến hóa luận”và tư tưởng “vị dân tộc’
Theo
quan niệm phổ biến trong nhân loại học văn hóa, bất luận khái niệm văn hóa có
được định nghĩa như thế nào đi chăng nữa thì về căn bản, nó đều có thể được quy
về ba thành tố chính:
(1) Các hiện vật văn hóa (ví dụ: nhà cửa, ruộng nương, quần
áo, thức ăn, công cụ sản xuất, phương tiện sinh hoạt, v.v.);
(2) Các hành vi văn hóa và trạng thái tình cảm (ví dụ: cách
người ta ứng xử với nhau và ứng xử với thiên nhiên, những hành động và cách
biểu lộ cảm xúc của họ);
(3) Các tri thức văn hóa, tức hệ thống kiến thức mà người ta
tích lũy được qua những con đường khác nhau.
Trong
ba thành tố nói trên thì tri thức văn hóa là quan trọng nhất vì nó quy định cái
cách mà người ta làm ra các hiện vật văn hóa, người ta ứng xử với nhau và ứng
xử với tự nhiên. Nếu như hai thành tố đầu tiên (hiện vật và hành vi văn hóa) có
thể quan sát được vì nó hiển hiện thì yếu tố thứ ba (tri thức văn hóa) lại khó
có thể nhìn thấy vì nó vô hình. Thông thường, chúng ta tìm cách để hiểu được
tri thức văn hóa thông qua việc phân tích các hiện vật mà người ta làm ra, cách
người ta hành động, và lắng nghe cách người ta nói. Nhưng chính ở đây lại bộc
lộ một vấn đề nan giải: Chúng ta giải thích các hiện vật và hành động văn hóa
mà chúng ta quan sát được như thế nào? Văn hóa mà ta nhìn thấy được mới chỉ là
một phần cái mà ta biết. Phần lớn tri thức văn hóa giống như những tảng đá
ngầm, chúng ta không thể nhận ra ngay tức thì, vì nó tiềm ẩn đâu đó trong tâm
hồn người ta, và chỉ nảy sinh trong các tình thế cụ thể nào đó để từ đây, ta
hiểu được tri thức văn hóa tiềm ẩn trong họ. Đây chính là nguyên nhân tại sao
khi mô tả các hiện vật và hành vi văn hóa, tức phần nổi của văn hóa, thì người
ta không có nhiều bất đồng nhưng khi giải thích ý nghĩa tàng ẩn trong các hiện
vật, hành vi văn hóa và mối liên hệ của chúng với tri thức văn hóa thì người ta
lại tranh cãi rất nhiều. Tôi cho rằng cội nguồn của sự khác biệt này xuất phát
từ hai yếu tố: (1) những trải nghiệm cá nhân; và (2) những quan niệm có tính lý
luận mà bản thân nhà nghiên cứu/nhà báo chịu ảnh hưởng. Hai yếu tố này luôn
đóng vai trò rất quan trọng trong việc dẫn dắt các nhà báo khi họ giải thích
văn hóa.
Cho
đến nay, khoa văn hóa học đang phát triển ở Việt Nam vẫn chưa đạt được những tiến bộ
về mặt lý luận nhằm giúp hiểu đúng bản chất của các hiện tượng văn hóa. Từ báo
chí đến các công trình nghiên cứu khoa học, ta vẫn thấy nhan nhản những nhận
xét về văn hóa các dân tộc thiểu số là “chậm tiến bộ”, “lạc hậu”, “tàn dư của
xã hội nguyên thủy”. Bằng cách nhìn như vậy, chúng ta đã tuyệt đối hoá quá
trình phát triển của văn hoá loài người theo các thang bậc xã hội cao thấp, và
do đó không nhìn thấy tính đa dạng và khác biệt của các nền văn hoá khác nhau.
Thực ra, đây là một lập luận cũ rích, đã trở nên lỗi thời vì nó đã được phát
triển từ thời thực dân nhằm biện hộ cho quá trình xâm lăng và đô hộ các dân tộc
nhược tiểu dưới chiêu bài “khai sáng văn hóa”. Chúng ta đã tiếp thu cái tư
tưởng này vào trong cách giải thích văn hóa của mình một cách thiếu phê phán,
chia văn hóa các tộc người theo những giai đoạn phát triển cao thấp để từ đó
ngày ngày cỗ máy tuyên truyền của chúng ta vẫn ra rả rêu rao khẩu hiệu “đem ánh
sáng văn hóa miền xuôi lên khai hóa cho miền núi”[[13]].
Ngày nay, thay vì xem các nền văn hóa khác là lạc hậu và nguyên thuỷ, các nhà
khoa học đã thừa nhận tính đa dạng như là một đặc điểm phổ quát của nhân loại,
tức là thừa nhận và dung nạp sự khác biệt của các nền văn hoá khác. Tư tưởng
này vừa là “phương pháp luận nghiên cứu nhân học”, vừa là “đạo đức của nhân
học”, và nó đã luôn đứng ở vị trí chi phối các phân tích về văn hoá của các tộc
người trên thế giới hiện nay.[[14]]
Một
quan niệm khá phổ biến vẫn đang ngự trị cái cách chúng ta mô tả văn hóa các dân
tộc trong đó cho rằng các giá trị văn hóa của tộc người thường lắng đọng ở một
tầng sâu hơn. Tầng văn hóa này được xem như những yếu tố trường tồn của văn
hóa, hay có người thích ví von, gọi đó là những “trầm tích văn hóa”. Gọi là
trầm tích vì nó ít biến đổi, và do đó giúp ta nhận diện được bản sắc tộc người.
Không có cơ sở để xem xét mức độ ảnh hưởng của quan niệm này nhưng có thể thấy
hầu hết các nghiên cứu về văn hóa tộc người của chúng ta đều cố gắng đi tìm
những “hồi âm của quá khứ”. Những nghiên cứu này mô tả các hiện tượng văn hóa
như thể chúng tồn tại “không có thời gian, luôn ở trạng thái tĩnh tại không
biến động”[[15]], thậm
chí nhìn văn hóa các tộc người thiểu số vẫn như còn phảng phất cái hơi thở của
một thuở “hồng hoang”. Rõ ràng cái cách mà báo chí “huyền bí hóa” các hiện
tượng văn hóa, tập trung phản ánh các tập tục lạ “cổ xưa” có một mối liên hệ
nào đó với cách tiếp cận này. Thực ra, cần phải thấy rằng văn hóa không phải là
cái gì đó bất biến mà ngược lại, nó thường xuyên tiếp nhận, thích ứng và đổi
thay. Bằng cách nhìn văn hóa như một hiện tượng tĩnh tại, như những giá trị
vĩnh hằng không biến đổi, chúng ta vô tình phủ nhận văn hoá như một năng động
xã hội và do đó, dễ sa vào chủ nghĩa bản địa, coi thường các yếu tố ngoại sinh
và không nhìn thấy sức sống của các yếu tố nội sinh.
Đã
có một thời các nhà nghiên cứu có khuynh hướng đề cao các trung tâm văn hóa và
cho rằng từ các trung tâm này, văn hóa được khuyếch tán ra các vùng ngoại vi.
Nói cách khác, ngoại vi là vùng chịu sự tác động của trung tâm, nó không chỉ
“bị thu hút bởi trung tâm mà còn tiếp nhận một cách thụ động sự lan tỏa văn hóa
từ trung tâm”. Do vậy, “ngoại vi văn hóa bao giờ cũng tĩnh lặng, ít sôi động
hơn so với trung tâm”. Vận dụng lý thuyết này vào nghiên cứu Việt Nam, các nhà
nghiên cứu cho rằng Thăng Long - Hà Nội đã luôn luôn là đất “tụ nhân, tụ tài”
để trở thành “tinh hoa của cả nước”.[[16]]
Về mặt lô-gic hình thức mà nói, lập luận này có vẻ dễ được chấp nhận, nhưng khi
vận dụng nó vào xem xét văn hóa các tộc người Việt Nam chúng ta thấy lý luận
này có vấn đề.
Trước
hết, không ai có thể phủ nhận Thăng Long Hà Nội là trung tâm của cả nước, nhưng
nhìn văn hóa trong một không gian rộng hơn biên giới quốc gia, ta thấy còn có
những trung tâm văn hóa khác. Từ trước đến nay chúng ta thường có thói quen lấy
đường biên giới chính trị của quốc gia để phân loại trung tâm và ngoại vi,
trong đó thủ đô mặc nhiên được thừa nhận là vùng trung tâm, nhưng vùng ảnh
hưởng hay ngoại vi của nó tới đâu thì không chỉ ra được. Thực ra, hầu hết các
tộc người thiểu số ở Việt Nam
đều là các tộc người xuyên biên giới. Họ chỉ là thiểu số trong biên giới lãnh
thổ quốc gia nhưng không gian cư trú của các tộc người này bao trùm trên cả một
không gian địa lý liền khoảnh rộng lớn hơn. Không gian văn hóa do đó không thể
trùng khít với không gian lãnh thổ của một quốc gia mà có thể bao gồm một vùng
rộng lớn hơn nhiều. Nếu chúng ta lấy Hà Nội làm trung tâm, chúng ta dường như
thừa nhận vùng núi là “vùng sâu, vùng xa” hay còn gọi là “vùng ngoại vi”. Nhưng
các vùng ngoại vi này chưa chắc đã chịu ảnh hưởng của văn hóa trung tâm Thăng
Long – Hà Nội. Nhìn trên một không gian địa lý rộng hơn trong chiều sâu của
lịch sử, ta thấy văn hóa Việt chịu ảnh hưởng của văn hóa Khổng giáo, trong khi
nhiều tộc người khác chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn độ giáo. Tập trung vào một
không gian hẹp hơn, ta thấy có các tiểu trung tâm văn hóa như Việt, Chăm, Khmer
và Thái. Như vậy rõ ràng văn hóa của nhiều tộc người ở Việt Nam chịu ảnh hưởng
của những trung tâm văn hóa khác nhau ngoài văn hóa Việt.
Nếu
mặc nhiên thừa nhận Thăng Long – Hà Nội là trung tâm, chúng ta có vẻ như thừa
nhận vùng cư trú của các tộc người thiểu số ở miền núi là ngoại vi, nơi mà
chúng ta vẫn thường gọi là vùng sâu vùng xa. Tuy nhiên, xem xét các trung tâm
văn hóa vùng như đã phân tích ở trên, ta thấy văn hóa các tộc người ở các “vùng
sâu vùng xa” chưa chắc đã là ngoại vi mà ngược lại có thể gần hơn với các trung
tâm văn hóa khác Việt. Do đó lấy địa giới hành chính quốc gia để phân loại
trung tâm và ngoại vi có thể sẽ dẫn đến ngộ nhận văn hóa của tộc người đa số là
trung tâm, và văn hóa các tộc người thiểu số là ngoại vi. Thực ra, lý luận về
văn hóa trung tâm và ngoại vi đã trở nên lạc hậu từ lâu vì nó phủ nhận những
năng động địa phương khi cho rằng vùng ngoại vi chỉ là vùng chịu ảnh hưởng và
có tính thụ động. Nguy hiểm hơn, trong một quốc gia đa tộc người, lý luận này
ngấm ngầm tạo cơ sở cho tư tưởng lấy tộc người đa số làm chuẩn mực và nhìn các
tộc người thiểu số ở vị trí bị động, phụ thuộc, trông chờ và ỷ lại vào trung
tâm. Tôi tin rằng cái cách mà báo chí mô tả thân phận phụ thuộc và văn hóa lạc
hậu của các tộc người thiểu số ở Việt Nam đều ít nhiều chịu ảnh hưởng của
luận thuyết đã lỗi thời này.
Trong
quá khứ, dù nói ra hay hành động một cách ngấm ngầm, các nhà cai trị nói chung
đều ủng hộ xu hướng đồng hóa văn hóa, lấy văn hóa của người đa số làm trung tâm
để uốn nắn văn hóa của các tộc thiểu số, làm cho nó xích gần lại văn hóa của
người đa số. Ngày nay, người ta thấy chính sách dân tộc ở nhiều quốc gia đã có
sự thay đổi căn bản mà trọng tâm của thay đổi này là chuyển từ tư tưởng đồng
hóa sang hội nhập văn hóa, làm cho các tộc người thiểu số hòa vào dòng chảy
chung của đất nước bằng bản sắc và nội lực riêng của họ thay vì cố gắng làm cho
văn hóa của họ giống với người đa số. Hoạt động tuyên truyền của báo chí nên đi
theo hướng này thay vì phê phán cái khác biệt trong văn hóa “của họ” (người
thiểu số) với văn hóa “của ta” (người đa số) để rồi kêu gọi từ bỏ truyền thống
riêng của các dân tộc thiểu số mà ta quy kết là lạc hậu và mông muội. Nguyên
Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, ông Cư Hòa Vần đồng ý rằng những phong
tục tập quán nào không có lợi cho nòi giống dân tộc, cho sức khỏe và đoàn kết
dân tộc thì loại bỏ. Nhưng “loại bỏ cái
gì, phát huy thế nào cũng phải bàn bạc để người ta phát huy chứ không phải để
mình phát huy hộ người ta” [[17]].
4. Kết luận
Các
dân tộc thiểu số ở khu vực miền núi Việt Nam đang đứng trước những xung đột
giữa phát triển, hội nhập và bảo tồn bản sắc văn hóa. Một mặt, miền núi không
thể và cũng không còn được duy trì như cũ mà phải thay đổi để phát triển. Nhưng
mặt khác, quá trình phát triển luôn đi song hành với những hệ lụy như làm mất
bản sắc văn hóa và tàn phá môi sinh. Giải quyết được mối quan hệ giữa phát
triển và bảo tồn văn hóa các tộc người là một nan đề của miền núi hiện nay. Tuy
nhiên, phải nhận thấy rằng phát triển không phải là giải pháp mà là vấn đề. Có
rất nhiều vấn đề cần được nhìn nhận trong quá trình phát triển như đói nghèo, kỳ
thị, mất bản sắc, v.v... Có người nghĩ rằng vấn đề cấp bách hiện nay là giải
quyết đói nghèo và nếu cần, có thể hy sinh văn hóa. Thực ra, nếu phát triển mà
mất bản sắc thì sự phát triển ấy trở nên vô nghĩa. Vấn đề là phải sử dụng văn
hóa của các dân tộc vào quá trình phát triển, và phát triển phải hướng đến bảo
tồn được bản sắc văn hóa các tộc người. Giải quyết thành công mối quan hệ giữa
phát triển và bảo tồn bản sắc văn hóa phải là mối quan tâm lớn trong hệ thống
chính sách dân tộc của Nhà nước. Báo chí có vai trò cực kỳ to lớn trong vấn đề
này vì chỉ có báo chí mới làm được cái cầu nối giữa nhà nước và cộng đồng. Tuy
nhiên, điều đáng lo ngại là hình ảnh về các tộc người thiểu số mà báo chí đang
tạo ra có nguy cơ làm rộng thêm khoảng cách giữa người đa số và thiểu số. Thay
vì tôn trọng sự đa dạng và khác biệt văn hóa, báo chí có xu hướng lấy quan điểm
và nhận thức của người đa số làm trung tâm để phán xét văn hóa của người thiểu
số. Báo chí thay vì lắng nghe, thấu hiểu và biện hộ cho các tộc người thiểu số lại
tập trung phê phán và dán nhãn cho tập quán và lối sống của họ là “nguyên thủy”
và “lạc hậu”.
Thực
ra, coi nhẹ văn hóa người thiểu số cũng là tình trạng phổ biến ở nhiều nước
trên thế giới, đã được Dixon (2000) khái quát thành một luận thuyết mà ông gọi
là “ethnic blame discourse” [[18]], trong
đó tình trạng rập khuôn, dán nhãn và cường điệu thường là căn nguyên đẻ ra những
hình ảnh méo mó về các tộc người thiểu số.[[19]] Trong tiến trình đi đến một xã hội công dân thì sự phản ánh
thông tin hai chiều có ý nghĩa quyết định tạo ra đồng thuận. Việt Nam là
một đất nước đa tộc người, và mỗi tộc người đều có nền văn hóa và lối sống
riêng của họ. Chính những bản sắc riêng này góp phần tạo nên hình ảnh một quốc
gia giàu hương sắc văn hóa. Phản ánh sai lệch hình ảnh các dân tộc, lấy người
đa số làm trung tâm để phán xét văn hóa của người thiểu số đều có nguy cơ dẫn
đến phá vỡ khối đoàn kết các dân tộc. Lắng nghe, thấu hiểu và biện hộ cho những
tiếng nói yếu ớt của các tộc người chính là mang hơi thở sống động từ những nền
văn hóa độc đáo giầu bản sắc đến với xã hội, góp phần tăng cường hiểu biết lẫn
nhau, giảm thiểu xung đột, cải thiện và đổi mới chính sách của nhà nước để xây
dựng một xã hội hài hòa, tiến bộ và văn minh.
Chú thích:
[[1]] Bài
viết này là một phần của đề tài nghiên cứu về định kiến sắc tộc ở Việt Nam do
Viện Nghiên cứu Xã hội và Môi trường (iSEE) chủ trì. Kết quả nghiên cứu ban đầu
đã được thảo luận với khoảng 50 nhà báo tại Câu lạc bộ Báo chí Việt Nam
(11/2009) và đại diện các tổ chức phi chính phủ có quan tâm đến vấn dề dân tộc
thiểu số ở Việt Nam (2/2010).
[[2]] Theo
danh mục các dân tộc do chính phủ công nhận tại Quyết định số 121-TCTK/PPCĐ
ngày 02 tháng 3 năm 1979, Việt Nam có 54 dân tộc, thuộc về 5 nhóm ngôn ngữ
chính là Môn – Khmer, Tày – Thái, Hmong – Dao, Hán - Tạng, và Kadai (http://www.gso.gov.vn). Tổng điều tra Dân số
2009 cho biết dân số các tộc người thiểu số chiếm tỷ lệ 13.8% tổng dân số cả
nước, (http://www.indexmundi.com/vietnam).
[[3]] Oscar
Salemink (2000), “Sedentarization and Selective Preservation among the
Montagnards in the Vietnamese Central Highlands,” in Turbulent Times and Enduring Peoples: Mountain Minorities in the
South-East Asian Massif, ed. Jean Michaud and Jan Ovesen (Richmond, UK:
Curzon), 129.
[[4]] Bộ
trưởng Thông tin và Truyền thông Lê Doãn Hợp trong một trả lời phỏng vấn báo
chí, đã tuyên bố: “Báo chí cũng giống như người tham gia giao thông, cứ đi đúng lề đường bên
phải thì sẽ an toàn và được tự do”. Tuổi Trẻ, ngày 3 tháng Tám 2007.
[[5]] Các
phân tích định lượng trình bầy trong báo cáo này được rút ra từ một phân tích
chi tiết hơn do các nghiên cứu viên
Nguyễn Thị Tuyết Minh, Bùi Thu Hương, Phạm Hương Trà và Phạm Thị Vân
thuộc Học viện Báo chí và Tuyên truyền Hà Nội tiến hành. Nhân đây, tôi xin cảm
ơn ông Lê Quang Bình, Viện trưởng iSEE đã khuyến khích và tạo điều kiện, và
nhóm các nhà nghiên cứu trẻ thuộc Học viện Báo chí & tuyên truyền đã giúp
thu thập và phân tích thông tin.
[[6]] Sự
kiện nhiều tộc người Tây Nguyên tụ tập biểu tình đòi quyền tiếp cận đất đai, tự
do tôn giáo và tự trị xảy ra đầu năm 2000 và những năm tiếp theo có lẽ đã thúc
đẩy mạnh mẽ các hoạt động của nhà nước tại khu vực này, và cắt nghĩa tại sao
báo chí lại đưa nhiều tin bài về các hoạt động trợ giúp ở vùng này.
[[7]] Chúng
tôi cho rằng định kiến dân tộc là những quan niệm, nhận thức và hành vi mang
tính tiêu cực của thành viên tộc người này đối với tộc người khác. Biểu hiện
của định kiến dân tộc là xu hướng giải thích sai lệch hoặc cường điệu những đặc
điểm về nguồn gốc lịch sử, văn hóa vật chất và tinh thần của một tộc người hay
một nhóm tộc người dựa vào thiên kiến chủ quan có sẵn.
[[10]] Lang
Quốc Khánh (2009), Viết về đồng bào dân tộc cần hiểu đúng văn hóa. ICT News, 20/01/2009.
[[11]] Theo
TTXVN, cơ quan này có tới 4/6 ấn phẩm dành phục vụ
riêng cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó ấn Bản tin ảnh Dân tộc thiểu số & miền núi được
phát hành miễn phí trên 5.000 xã, 400 huyện và gần 50.000 thôn, bản của 52 tỉnh
có miền núi trong cả nước, số lượng phát hành mỗi kỳ là 55.000 bản.
[[13]] Nhà
thơ Dương Thuấn tranh luận: “Tại sao người dân Thủ đô được coi là có văn hóa
nhất mà đi xem triển lãm hoa lại bẻ nát hết hoa, đấy là một hành vi cực kỳ vô
văn hóa. Điều đó nói lên rằng người dân thành thị chưa hẳn đã có trình độ, ý
thức về văn hóa cao hơn người dân ở nông thôn và miền núi. Thế mà hàng ngày,
chúng ta vẫn tuyên truyền "đem ánh sáng văn hóa miền xuôi lên khai hóa cho
miền núi". Xem: Đừng ngộ nhận văn hoá dân tộc (http://www.vtv4.vn ngày 29.6.2009).
[[14]] Nguyễn
Văn Chính (2007), Một thế kỷ dân tộc học Việt Nam, và những thách thức trên con
đường đổi mới và hội nhập. Văn hoá Dân gian, Số 5(113), 2007, tr. 47- 67.
[[18]] Dixon, T. L.,
& Linz, D.
(2000). Overrepresentation and underrepresentation of African Americans
and Latinos as lawbreakers on television news. Journal of Communication, 50(2),
131-154.
[[19]] Wilson II, C. C., &
& Gutierrez, F. (1995). Race, multiculturalism, and the media: From mass to
class
communication. Thousand
Oaks, CA: Sage.
Tóm tắt bài viết bằng tiếng Anh
The Portrayals of Ethnic Minorities in Vietnam’s Print Press
Abstract
Based on the content
analysis of a purposive sample of 500 articles collected from four popular
newspapers in three years 2004, 2006 & 2008, this paper explores the way
how members of ethnic minorities are portrayed in Vietnam’s news coverage, especially
in the print press. My main concern is how the diverse cultures and lives of
ethnic minority groups are portrayed and interpreted and how these portrayals
may affect our perceptions. Results indicated that ethnic minorities were
primarily portrayed as some one who is naive and passive, easily being used by
the wrongdoers, and lack of the efficient knowledge. Three most popular trends
that newspapers tend to focus on include: 1) Exoticisation of ethnic customs
and practices, describing them as mysterious strange facts; 2) Romanticisation
of mountainous region with beautiful landscape where the strange customs of
love and especially the sexy images of mountain women are often emphasised; 3)
Dramatisation of ethnic minorities’ lives, depicting them as people without
vitality and their poverty is driven by social ills such as alcoholic and drug
abuse, ignorance and relying on the State’s support.
While singing loudly the
praises of State’s ethnic policies, such issues as politics, ethnic festivals,
starnge customs, ethnic tourism, and “good” exemplary ethnic individuals
received significant coverage, and issues relating to negative impacts of
governmental development projects/program within the ethnic minority areas and
their powerful internal forces received scant attention. As I see it, there is
an obvious shortage of empathy and advocacy of reporters when they depict
the image of ethnic minorities. This tendency is particularly problematic in a
multicultural country like Vietnam
where the ethnic minorities take up almost 14 percent of total population and
State’s ethnic policies alway calls for an equality and mutual support among
ethnic groups. The possible effects of exposure to such issues are reinforcement
of differences between ethnic majorities and ethnic minorities rather than the
promotion of interethnic co-existence as said in the state policies ans laws.
These findings are expected to enrich the existing research on the effects of
media portrayal of ethnic minorities on inter-group relations, provide
insights into the pervasive of stereotyping in the media and offer implications
for combating stereotyping and encouraging healthier, more realistic portrayals
of ethnic minorities.